Chương 296: Vĩnh Biệt Một Thời Đại Xui Xẻo

Những truyền thuyết đầy ma quái trong Cố Cung xưa vẫn lan truyền cho đến tận ngày nay. Địa điểm đã từng xảy ra rất nhiều câu chuyện như vậy là Tây Lục Cung, nơi ở của phi tần nhà Thanh. Song, chẳng ai có thể khảo chứng xem nơi đây có bao nhiêu oan hồn vất vưởng.

Cố Cung mà chúng ta biết chỉ mở cửa đón du khách tới đúng năm giờ, sau đó đến lượt lũ chó to khỏe làm công việc dọn dẹp sân bãi. Bởi lẽ, từ khoảnh khắc ấy trở đi, âm khí bên trong Cố Cung rất thịnh.

Đúng là “âm khí”! Thứ không khí u uất khủng khiếp khiến người ta không rét mà run. Mặc dù mặt trời chưa xuống núi nhưng nơi đây lại tập trung vô số ý nghĩ thù hận không thể tiêu tán. Nếu bạn dám một mình bước vào nơi cung điện tối tăm, trống trải và không có bóng người thì sẽ cảm nhận được điều đó một cách sâu sắc.

Thường ngày, chúng ta chỉ thấy một phần của Cố Cung. Phần lớn những nơi còn lại không mở cửa đón khách. Bạn muốn biết nguyên nhân cụ thế ư? Hãy hỏi các cơ quan chức năng có liên quan ấy. Tất nhiên rồi! Cho dù bạn nhận được câu trả lời nhưng chưa chắc đã hài lòng với nó.

Tóm lại, những lời đồn thổi ma quái chưa bao giờ ngừng lại. Những kẻ từng qua đêm ở Cố Cung hay người đi dạo ngang qua đó vào buổi tối đều có thể kể vài ba câu chuyện khiến bạn nổi da gà.

Ví dụ, những cô hồn chết oan trong cung sẽ lượn lờ quanh một con hẻm vào nửa đêm. Đó là “đường Âm Dương” nổi tiếng ở Tây Lục Cung. Câu chuyện nổi tiếng nhất ở nơi này là về một nữ quỷ chuyên bóp cổ người ta.

Đầu những năm mới giải phóng có lời đồn đại về một vụ án như sau:

Một người nào đó đã qua đêm ở Cố Cung rồi biến mất một cách bí ẩn, không để lại dấu vết nào, y như bốc hơi khỏi nhân gian. Vì vụ án này mà sở cảnh sát đã lập hẳn một tổ chuyên án để tiến hành điều tra. Có lẽ các độc giả trẻ tuổi sẽ không hiểu tại sao một vụ mất tích bình thường lại trở nên ầm ĩ như vậy? Nguyên nhân chắc chắn không phải là do sở cảnh sát muốn điều tra một vụ án ma quái để lấy tiếng. Đảng Cộng Sản là những người kiên quyết đi theo chủ nghĩa duy vật nên không thể lập án chỉ vì tin đồn thất thiệt. Lý do thật của vụ án này có liên quan tới bối cảnh lịch sử đương thời.

Những năm ấy, chuyện sở cảnh sát làm nhiều nhất là bắt đặc vụ. Dựa theo hiểu biết của ta về giai đoạn lịch sử trên thì mật độ đặc vụ khi ấy vượt xa sức tưởng tượng của mọi người. Ví dụ, hôm nay đi làm, bạn vừa ra khỏi cửa bắt chuyện với bác Trương giao báo. Được rồi, xin hãy chú ý, ông bác này rất có thể đang mang quân hàm Thiếu úy. Sau đó, bạn cầm chai sữa bò trong hộp thư, lái con xe đạp cọc cạch trên con đường đầy sỏi đá. Giữa đường, bạn theo lệ dừng lại mua hai cái bánh bao chỗ cô Lý. Bạn cần phải chú ý điểm này: cô Lý là Thượng sĩ, đội viên chủ lực của một tổ đặc nhiệm. Cấp trên của cô là bác Trương giao báo. Tiếp đó, bạn tới cơ quan thì lão Trần gác cổng niềm nở nói chuyện với bạn. Có lẽ bạn phải thấy vinh hạnh vì ông bác vừa rồi cũng là một Thiếu úy. Cuối cùng, bạn tới nhà xưởng và bắt đầu một ngày làm việc vất vả. Tổ trưởng của bạn bước tới vỗ vai một cách thân thiện rồi nói với bạn:

“Nhóc, làm tốt lắm, nhưng đừng cố sức nghe chưa. Phải biết kết hợp giữa làm việc và nghỉ ngơi.”

Vị này rất lợi hại, cấp bậc Thượng úy, là người lãnh đạo trực tiếp của cục quân thống. Mọi đặc vụ bạn gặp từ sáng tới giờ đều là cấp dưới của ông ta.

Ta kể chuyện này có thể khiến bạn cảm thấy rất buồn cười. Song, đó là sự thật. Đoạn lịch sử này cũng không cách chúng ta quá xa. Tuy bọn họ không thể xem như những đặc vụ thực thụ nhưng có thể đã “ẩn nấp” hơn ba mươi năm mà chưa từng được liên lạc, chưa từng thực hiện bất cứ một nhiệm vụ nào. Lý do khiến Trương Tam, Lý Tứ, Vương Nhị mặt rỗ có quân hàm cao như vậy là vì Đảng nào đó (1) đã sa sút tuyệt vọng tới mức có thể làm mọi thứ. Thẩm tra chính trị, huấn luyên, v.v... đều bị lược bỏ. Nói tóm lại, người ta bắt đại một gã vớ vẩn nào đó rồi gạch hai vạch lên vai. Xong, bạn là một đặc vụ nằm vùng. Hãy chờ đợi mệnh lệnh từ Đài Loan! Đợi đến ngày chúng ta phản công thì bạn sẽ là công thần!

Ngày ấy vẫn chưa tới...

Tóm lại, đặc vụ khi đó nhiều vô số kể, nhiều tới độ bắt hoài không hết. Mỗi khi sở cảnh sát phát hiện ra một sự kiện có tính chất mẫn cảm thì đều liên hệ đến những phần tử cực đoan. Chuyện này không có gì đáng trách. Ngành thủy lợi, điện lực, bưu chính viễn thông, kho lương thực, v.v..., ở đâu có gió thổi cỏ lay là có phần tử cực đoan mưu đồ làm loạn ở đó, không thể sơ suất được.

Cố Cung là chỗ nào chứ? Nó là di tích lịch sử - văn hóa quan trọng của Trung Quốc. Ngoài việc tránh đổ máu, lý do khiến Bắc Bình (2) được giải phóng dễ dàng là để bảo tồn ý nghĩa lịch sử của Cố Cung, tránh khỏi bom đạn mạnh mẽ của chiến tranh cận đại. Vì vậy, nếu lơ là với vụ án xảy ra ở đây thì không hay ho chút nào!

Hơi lan man rồi! Trở lại với vụ án năm đó. Vụ án này không tra thì thôi, một khi tra ra, kết quả thật đáng kinh ngạc. Về cơ bản, bản báo cáo như sau:

Đó là một ngày cuối hè, trời nhá nhem tối, gió giật mạnh, mưa xối xả. Tôi và một điều tra viên khác đang đứng canh dưới mái hiên. Trên trời bỗng có sấm sét đì đùng khiến chung quanh sáng như ban ngày. Đúng lúc đó, trên bức tường đầu hẻm loáng thoáng bóng của một người phụ nữ. Hình như cô ta đang xoay lưng và cầm thứ gì đó. Chúng tôi tới gần tra xét thì không thấy ai cả, nhưng cũng chẳng phải là bóng cây. Trong đêm hôm đó, chừng hai – ba giờ sáng, chúng tôi liên tục nghe thấy tiếng phụ nữ khóc lóc. Khi thì rất xa, khi thì ngay sau lưng, có lúc giống như khóc nỉ non ngay sát bên vậy.

Thử nói xem! Nếu là lãnh đạo thì bạn có cảm tưởng thế nào khi đọc bản báo cáo này?

Do đó, vụ án này bị treo. Bản báo cáo đã bị tiêu hủy hoặc bị vứt trong một góc bụi bặm nào đó. Nói tóm lại, vụ án dần dần chìm vào quên lãng và để lại trong lòng những người biết chuyện một bóng ma khó phai mờ.

....

Vương Hủ nhìn khuôn mặt trắng bệch trên trần nhà. Ngoài kinh ngạc, hắn thật lòng khâm phục tạo hình của nữ quỷ. Tỷ tỷ này mà chạy đến một con đường đông đúc nào đó ở thế kỉ 21 thì sẽ trở thành một nhà nghệ thuật có tiếng ấy chứ.

Nữ quỷ không có lông mi, trong miệng trào ra thứ chất lỏng đen đúa. Nó bò một cách kỳ dị trên xà nhà bằng hai tay, từ đầu gối trở xuống là một khoảng không nhưng khớp nối với bắp chân lại được bọc da nguyên vẹn. Điều này khiến người ta sợ hãi. Khi thành quỷ, vết thương trên thể xác sẽ được thể hiện trong trạng thái oan hồn. Ví dụ bị chặt đầu thì sẽ trở thành quỷ không đầu, bị móc mắt sẽ trở thành quỷ không mắt. Còn thắt cổ thì sao? Tất nhiên sẽ có tạo hình của quỷ lưỡi dài. Tuy nhiên, tứ chi của con quỷ trước mắt không chảy máu, không thối rữa. Dường như nó đã mang hình dáng như thế từ khi còn sống.

Miêu Gia nói:

“Đúng lúc xuất hiện... lại còn dạo chơi đến chỗ này nữa... “

Vương Hủ khẽ nghiêng đầu về phía Miêu Gia nhưng vẫn không rời mắt khỏi nữ quỷ:

“Này... ngươi xử lí đi...”

Miêu Gia đặt quan tài sang một bên, đóng cửa phòng rồi than thở:

“Sự xuất hiện của nữ quỷ đã phá ‘bố cục’ vốn có của nơi này. Giờ thì âm khí quá nặng, lại sắp nửa đêm, chúng ta nhất định phải khiến hai khí âm – dương ở đây cân bằng trở lại.”

“Ta không biết ngươi đang nói đến cái gì...”

“Nửa đêm giờ Tý, trong mười hai địa chi, là dương thủy. Vậy thiên thời của chúng ta là dương. Nơi đây là chỗ ở một người phụ nữ vô cùng âm tàn, mệnh số tây phương. Cái âm của mụ đủ để đối chọi với thiên thời. Do đó, địa lợi của chúng ta là âm.”

Vừa nói, Miêu Gia vừa điều chỉnh cái quan tài do Đường Văn Vũ tạo ra. Khi quan tài được chuyển tới giữa phòng, hình vẽ Thái Cực ở bên trong bắt đầu hiện lên. Hình dạng của nó dần dần trở nên rõ ràng hơn.

“Thiên thuần dương, càn tam liên. Địa thuần âm, khôn lục đoạn. (3) Con người ta từ khi sinh ra đã bị ảnh hưởng bởi ngũ hành, nằm ở thuộc tính nào cũng được xem như âm dương đầy đủ. Tuy khuynh hướng có khác biệt nhưng thuần âm bất trường, thuần dương bất sinh (4).”

Hắn nín thở, tập trung tinh thần rồi truyền linh lực thật chậm vào Thái Cực. Phát minh của Đường Văn Vũ bắt đầu vận chuyển:

“Khi thiên, địa, nhân cân bằng đến mức độ nào đó thì sẽ thấy được lối tắt ngược với lẽ trời. Cho dù chúng ta muốn xuyên qua thời không cũng chẳng phải chuyện to tát.”

Vương Hủ co giật khóe miệng:

“Xin hãy nói tiếng người…”

Miêu Gia nhìn thoáng qua nữ quỷ trên xà nhà. Có vẻ nó không định thừa cơ đánh úp hai người. Chỉ có gã thái giám sợ đến mức ngất đi.

“Ngươi đi đi, tránh xa chỗ này một chút.”

Nữ quỷ rất nghe lời. Nó bò men theo bờ tường rồi bị che khuất mất dạng.

“Chậc, đêm nay có quá nhiều cái trùng hợp. Giờ thì ‘nhân’ trong phòng thừa hơi nhiều âm khí. Việc xuyên không sẽ không diễn ra ổn định nữa.”

Nói đến đây, Miêu Gia ngừng lại rồi mỉm cười đầy gian xảo. Dường như hắn đã nhớ ra chuyện gì đó:

“May mà chưa đến mức hết thuốc chữa…”

Vương Hủ đã quen nụ cười, ánh mắt và giọng điệu này. Rõ ràng mình sắp gặp tai họa!

“Ngươi muốn làm gì?”

Vương Hủ như một cô bé nhà lành bị lưu manh ngoài đường trêu ghẹo. Dưới ánh mắt bỉ ổi của Miêu Gia, hắn vô ý lùi vài bước đến sát góc phòng.

“Hê hê, ngươi mệnh hỏa, khí dương trong người hơi nhiều, lại còn là trai tân…”

Vương Hủ nhìn Miêu Gia bằng ánh mắt sợ hãi:

“Ngươi muốn tế sống ta hả?”

Miêu Gia bỗng nhiên trở lại với vẻ ngoài uể oải:

“Không phải, ngươi chỉ cần đâm vào ngón tay và dùng năng lực linh hồn ép vài giọt máu rơi xuống Thái Cực là xong.”

“Móa! Làm ta sợ mất dép!”

Thở phào nhẹ nhõm, Vương Hủ bước tới chỗ quan tài:

“Chẳng phải chỉ có vài giọt...”

Chưa nói dứt câu, Miêu Gia đã rút dao giải phẫu ra và đâm vào đùi hắn.

Vẻ mặt của Vương Hủ rất đặc sắc. Đau thì không cần phải nhắc đến, cùng lắm chỉ cứng mặt một lát. Tuy nhiên, cảm giác không cam lòng khi bị lừa và nỗi hối hận khi ‘bị lừa nhiều lần nhưng không rút kinh nghiệm’ đã được thể hiện trong đôi mắt ngập tràn tơ máu của hắn.

Một lát sau, khi mà lượng máu chảy lên Thái Cực đã được khoảng một chậu, Miêu Gia mới rút dao phẫu thuật ra và thản nhiên nói:

“Bấy nhiêu thôi, lấy chừng này chắc đủ rồi.”

Vương Hủ nói với hắn:

“Ta nghĩ ra một cách ví von rất chuẩn xác về con người của ngươi…”

“Hả? Là gì?”

“Trước tiên, ngươi giết người. Sau khi đưa tang xong xuôi, ngươi nhảy múa trước mộ của người ta.”

Miêu Gia rất thích thú trước kiểu chế giễu như trên:

“Đây chỉ là một phần trong con người của ta. Có lẽ phần này vẫn còn hơi tốt bụng.”

Vương Hủ cười khan:

“Phải, phải, hay lắm, hay lắm, nếu ngươi dọn tới Gotham thì khổ cho Batman lắm đây.”

Việc chuẩn bị gần như đã xong. Miêu Gia quay sang nói với Vương Hủ:

“Đừng nói nhảm nữa. Hãy mau đặt tay lên vai ta. Đêm nay đã gặp đủ thứ chuyện bất ngờ rồi đấy. Chúng ta không được phép thất bại ở ngay bước cuối cùng.”

Vết thương trên đùi Vương Hủ vừa mới khép miệng. Hắn giữ chặt vai của Miêu Gia bằng một tay.

“Nếu ta đoán không sai thì ngươi sẽ mất hết khả năng chiến đấu suốt mấy ngày liền sau khi xuyên không.”

Miêu Gia cười nói:

“Hừm, không sao đâu. Dựa theo logic của ngươi thì thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng.”

Vương Hủ cũng mỉm cười. Trong dòng lịch sử lạ lẫm vừa qua, cả hai chỉ sắm vai khách qua đường, không để lại bất cứ tư liệu lịch sử nào. Có lẽ bọn họ “chỉ là truyền thuyết” nhưng cuộc sống của rất nhiều người đã thay đổi vì họ.

...

Jack the Ripper hoàn toàn biến mất kể từ tháng 11 năm 1888. Giống như khi xuất hiện, hắn không hề nằm trong tầm mắt của mọi người và nhanh chóng bị quên lãng. Một năm sau, chủ đề nói chuyện trong bữa ăn của người châu Âu đã thay đổi.

Thám tử trẻ Grant Amberley xin rút lui khỏi vụ án của Jack the Ripper. Thực tế cho thấy sự lựa chọn của hắn là đúng. Khoảng đầu năm 1889, hoàng gia Anh không còn kiên nhẫn và bắt đầu phê bình sự bất lực của cảnh sát. Cùng lúc đó, Amberley thăng chức mấy bậc liền, trở thành cục trưởng trẻ nhất của Scotland Yard, có thể nói là một bước lên mây. Đáng nói là, không lâu sau khi lên chức cục trưởng, hắn đã đề bạt một thám tử già không có gì xuất sắc làm phụ tá. Cái gã thật thà ấy tên là Henry Bart.

Tháng 11 năm 1897, Sơn Đông xảy ra vụ “giáo án Tào Châu”. Thôn dân xông vào giáo đường đánh chết hai tu sĩ người Đức là Franz Niez và Richard Heule. Tuy không rõ nguyên nhân dẫn đến sự việc trên nhưng đây là điều tất yếu trong lịch sử. Hình thức ấy chỉ diễn ra khi mâu thuẫn giữa nhà nước và nhân dân gay gắt đến đỉnh điểm. Sự kiện này đã mở màn một phong trào nổi tiếng trong lịch sử.

Một năm sau, Nghĩa Hòa Đoàn nhanh chóng nổi lên. Trung Quốc oằn mình trong một trận tai kiếp lớn: Canh Tử Quyền Loạn. Đây là phong trào bạo lực quy mô lớn của quần chúng nhân dân, vin vào khẩu hiệu “phù Thanh diệt Dương”, nhằm thẳng vào những giáo sĩ phương Tây, những người Tây ở Trung Quốc, thậm chí là cả những tín đồ và tu sĩ người Trung Quốc theo Cơ Đốc giáo.

Hơn 240 nhà truyền giáo bị giết, hơn 20000 tín đồ Cơ Đốc giáo người Trung Quốc tử vong, rất nhiều người không hề liên quan đến giáo hội cũng bị Nghĩa Hòa Đoàn giết hại. Số lượng người dân vô tội chết oan còn nhiều hơn lượng giáo dân bị giết, khó có thể thống kê hết...

Cuối cùng, tất cả đều kết thúc vào tháng 8 năm 1900. Liên minh tám nước tập trung quân tấn công thành Bắc Kinh. Vì cứu vãn tình thế nên chính phủ nhà Thanh đã diễn một màn hài kịch trên hiệp ước (5). Trung Quốc và thủ đô bước vào thế kỉ 20 với nỗi nhục rơi vào tay người Tây.

Vô số kẻ đã ngã xuống trong dòng chảy lịch sử nhưng không tạo nổi một cái gợn sóng.

Bàng Nhị, Lỗ Toàn, Phùng Lục, những người này ra sao? Ai biết được? Khi chết, có lẽ họ sẽ nghĩ:

“Thằng ôn con năm đó đang ở đâu? Lâu rồi không gặp hắn. Hay là quay về Tây Dương? Hay hắn cũng bị quyền phỉ (6) sát hạt rồi? Bố Già… có thể bảo vệ tất cả mọi người ư? Nếu có thì đó phải là Chúa trong miệng mấy lão già kia.”

...

Chuyện sau này tạm thời không nói tới, câu mở đầu không thêm thắt nhiều lời.

Vương Hủ thở ra một cách thoải mái:

“Vĩnh biệt một thời đại xui xẻo!”

Miêu Gia mỉm cười rồi nói:

“Đi thôi! Chúng ta trở lại tương lai!”

Hết quyển 7!

Dành tặng tập truyện này cho Thu Thảo...

-----o Chú thích o-----

(1) Tức Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch.

(2) Tên cũ của Bắc Kinh.

(3) Hai quẻ đầu và cuối trong bát quái, quẻ Càn tượng trưng cho trời, quẻ Khôn tượng trưng cho đất.

(4) “Thuần dương bất sinh, thuần âm bất trường” nghĩa là chỉ toàn âm hay toàn dương sẽ không thể sản sinh ra thứ khác và phát triển được.

(5) Dưới sức ép mạnh mẽ của Nghĩa Hòa Đoàn và sự uy hiếp của pháo hỏa liên quân 8 nước, triều đình nhà Thanh đứng đầu là Từ Hi Thái Hậu đã áp dụng thủ đoạn “Tuyên chiến giả, đầu hàng thật”. Đối ngoại thì đầu hàng chủ nghĩa đế quốc, đối nội thì đàn áp phong trào Nghĩa Hòa Đoàn.

Từ Hy Thái Hậu lúc này vẫn ôm ấp hy vọng, chỉ cần chủ nghĩa đế quốc đồng ý duy trì quyền thống trị của triều đình nhà Thanh, thì dù là bán nước cũng có thể chấp nhận, đã ra lệnh cho Lý Hồng Chương phải cầu hòa bằng mọi giá. Cuối tháng 12, bọn đế quốc đã đưa ra “Nghị hòa đại cương” gồm 12 điều và nhanh chóng được Từ Hi Thái Hậu chấp nhận. Ngày 7 tháng 9 năm 1901, triều đình nhà Thanh cùng đại diện liên quân đã ký bản “Hiệp ước Tân Sửu”. Đây là một hiệp ước bất bình đẳng, là hiệp ước bán nước nhục nhã xưa nay chưa từng có.

(6) Lực lượng nòng cốt của Nghĩa Hòa Đoàn bao gồm nhiều người giỏi võ nghệ. Do đó, Nghĩa Hòa Đoàn còn bị những người không ưa nó gọi bằng cái tên “quyền phỉ”.

-----o Nhóm Dịch Độc Cô Thôn o-----