Roman đã chết. Và tôi lại một mình.
Tôi chệnh choạng trở lại bên trong pháo đài, nhìn chằm chằm vào lá cờ của Bang Tatarstan—lá cờ của chúng tôi—giật tung phía trên một tháp canh, với một viên đạn găm qua góc phải. Tôi cắn ngón tay để chúng không run lên.
Con đường đi bộ từ lối vào pháo đài đến tòa nhà chính mờ kịt, như bị bao phủ bởi một đám mây mù. Pháo đài Izhevsk không rộng rãi, nhưng cũng chẳng đủ nhỏ để tôi không nhớ nổi rằng mình đã di chuyển từ chiến trường đầy xác chết đến hành lang đầy người cụt tay như thế nào. Tất cả những gì hiện ra trong tâm trí tôi là tiếng 'hự' cụt ngủn của Roman trước khi cơ thể anh đâm rầm vào bao cát. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng rít khi Roman trượt xuống bao lơn phủ đầy tuyết và trườn xuống chiến hào. Anh ấy vẫn ở ngoài đó. Vẫn chết.
Mùi máu của anh xộc trở lại vào trong miệng tôi.
Tôi quỳ xuống, cào đất cho đến khi gom được một nắm tuyết. Tôi nhét tuyết vào miệng rồi nhai ngấu nghiến. Rồi tôi vốc thêm một nắm nữa, nhét vào, nhai ngấu nghiến. Một nắm nữa. Rồi một nắm nữa.
Tôi ngấu nghiến tuyết cho đến khi mùi máu tan đi.
Chỉ sau đó, làn sương mới lùi bước, và lối vào khu phức hợp hiện ra trước mắt tôi. Cả một quân đoàn đang nằm trước mặt tôi, nhìn chằm chằm vào tôi.
Lũ khốn kiếp. Tôi cá là họ đang phán xét tôi, như thể họ chưa từng mất đi một người bạn nào trước đây vậy.
Tôi gõ vào huy hiệu trung úy trên đồng phục của mình, và họ ngoảnh mặt đi. Tôi bốc một nắm tuyết khác và giả vờ dùng nó rửa phù hiệu của mình.
Mẹ kiếp, Alexei, đừng mất bình tĩnh. Không phải ở đây.
Một anh chàng trong tiểu đội của tôi, biệt danh là Máy chạy, ngồi giữa những người lính kiệt sức, dựa lưng vào bức tường xám. Chân anh ta dang rộng, ngực anh phập phồng khi nhìn thấy tôi. Tôi không biết liệu anh ta có đang thừa nhận sự hiện diện của tôi hay không. Có lẽ anh ta cũng đang trong tình trạng mơ mơ tỉnh tỉnh.
Bên cạnh anh ta, một người đàn ông dáng vẻ vạm vỡ đang ngồi thụp xuống đất, tay ôm vai run rẩy. Tay kia anh ta lục túi và lấy ra một viên nasvai, loại thuốc lá nhai nhập lậu từ Uzbekistan. Anh ta đưa nó vào miệng bằng những ngón tay run rẩy. Tôi chẳng hiểu làm thế nào anh ta có thể nhai thứ đó với hàm răng rụng gần hết, hoặc làm thế nào anh ta có thể trơ trẽn đến mức để lộ tài sản quý giá của mình trước mặt mọi người.
Tôi càng không biết tại sao mình tức giận tới nhường này. Anh ta làm gì cũng đâu phải việc của tôi, nhưng tôi muốn đập đầu anh ta vào một đống đá lởm chởm ngay lập tức; càng nhọn càng tốt. Người đàn ông này đang cầm vàng trong tay, và anh ta không biết cách cất giấu nó ở nơi an toàn. Anh ta sẽ bị ăn cướp ngay tối nay, và tôi sẽ cười một trận hả hê khi điều đó xảy ra.
Chỉ sau khi tôi ngồi sụp xuống bên cạnh người đàn ông, tôi mới hiểu được mức độ nghiêm trọng của tình hình hiện tại. Một trận bão tuyết lớn đã gây gián đoạn cho trận chiến và cứu chúng tôi khỏi một thất bại quyết định, nhưng cái lạnh khắc nghiệt này sẽ thuyên giảm sau vài tuần nữa. May mắn thay, kẻ thù của chúng tôi—Bang Novgorod của Pavlyuchenko—không thèm khát chiến thắng tới vậy và cũng không chuẩn bị cho mùa đông. Tuy nhiên, khi thời tiết chuyển ấm dần lên, xe tăng của họ sẽ gia nhập quân ngũ, và mọi chuyện sẽ kết thúc với chúng tôi.
Và tôi chưa làm xong được việc quái gì cả.
Trung úy Petrov—đội phó đội của chúng tôi—xuất hiện từ cánh cổng đầy tuyết, máu khô bắn tung tóe trên vai anh ta. Quai hàm vuông vức, đôi mắt sắc lẹm và xương nhô ra—anh chàng này trông vô cùng đáng tin cậy. Nhưng bí mật nhỏ này: anh ta chẳng đáng tin chút nào. Chúng tôi đang đợi anh ấy và Trung tá Bragin xuất hiện, và đối với một người luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn chỉ thời gian, hôm nay Bragin đang 'cao su' từng giây một.
Petrov dừng lại nói chuyện với một đội trưởng mà tôi không biết tên. Tôi cho rằng anh ấy đang chuyển tiếp thông tin để tiểu đội kia có thể tiếp quản vị trí của chúng tôi dưới chiến hào, và chúng tôi có thể chiếm vị trí của họ trong những căn phòng thực sự dành cho người ở. Chúng tôi đã trải qua một tuần lặn lội trong tuyết và bùn, và thật công bằng khi chúng tôi được quay trở lại phía trong để hồi sức.
Trung úy chào tạm biệt đội trưởng nọ, rồi bước đến chỗ tôi đang đứng, vừa đi vừa nhìn lướt qua hành lang. Cách anh ta xoay sở để soi ra những người trong tiểu đội của chúng tôi giữa đám lính rải rác cũng có chút ấn tượng. Viên trung úy khẽ lắc đầu khi giao tiếp bằng mắt với tôi. "Đồng chí Vronsky, báo cáo thương vong."
Tôi làm đéo gì biết? Tôi vừa mới trở về. Một anh chàng dưới chiến hào thì biết gì, trong khi Trung úy Bragin thì ở trên tháp canh có thể quan sát toàn cảnh?
"Roman Yatsky đã chết. Máy chạy đang ở đây. Tôi không có thông tin gì về những người khác," tôi trả lời.
"Ồ." Anh nhìn tôi với vẻ thương hại. "Rom là một người đàn ông tốt. Tôi biết hai người thân thiết đến mức nào."
"Ừ." Đừng nói chuyện với tao nữa, thằng khốn. Tao chỉ muốn về phòng và ngủ li bì thôi.
"Hãy cho tôi biết nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì cho anh," anh nói.
"Có thể cho tôi một điếu xì gà," tôi khịt mũi.
"Điều đó thực hiện được. Trung úy Vronsky, tập hợp những người khác lại. Họ đang ở bên ngoài hoặc đang lang thang gần cổng phía Đông. Đang đợi để được ăn."
"Ừ, được." Không phải là những kẻ đó không biết điểm tập kết của chúng tôi ở đâu đâu. Bọn chúng chỉ đang tìm lý do để trốn việc thôi.
Tôi lùng sục khắp khu đất trống trải giữa cổng phía Bắc nơi tổi ở và tiến tới con đường nhỏ ven chiến lũy. Tôi chỉ tìm thấy thêm ba người lính từ tiểu đội của mình. Với tư cách là một trung úy, tôi có quyền khiển trách họ, nhưng tôi không cảm thấy khoái gì việc đó cả. Tôi bảo từng người họ đi đến điểm tập kết, và họ làm theo mệnh lệnh của tôi mà không nói thêm lời nào.
Sau mười phút, tôi đến cổng phía Đông, nơi đại úy Ushakov—phó chỉ huy thứ cấp của căn cứ, người mà thực ra chẳng làm cái vẹo gì—đang la mắng những người lính vì không lau chùi đống thiết bị của họ. Những người còn lại trong tiểu đội chúng tôi đang đứng giữa đám quân, cọ rửa đầu súng với tốc độ rùa bò. Nếu Petrov ở xung quanh, họ thậm chí sẽ không rửng rưng bận tâm, nhưng Ushakov mắc bệnh nổi khùng mãn tính và biết cách lạm dụng quyền lực của mình.
Tôi đợi Ushakov rời đi và ra hiệu cho người của tôi quay trở lại cổng phía Bắc. Ngay sau khi họ nắm được lệnh, tôi rời đi. Phòng của tôi ở phía đối diện của khu phức hợp, và tôi quay lại càng sớm càng tốt. Cả Dzyuba và Smolov đều đang biến mất không tăm tích, vì vậy sẽ không ai làm ầm lên về việc tôi bỏ quên nhiệm vụ dọn dẹp đâu. Có lẽ Petrov sẽ bao che cho tôi cũng nên.
Tôi chỉ không muốn làm bất cứ điều gì. Tôi đã sử dụng hết năng lượng ý chí của mình cho ngày hôm nay và đang rất cần được sạc lại.
"Anh cần tôi theo anh về chứ? Tôi đoán hôm nay anh cần giải tỏa tâm lý chút đấy," Petrov nói.
Anh ấy luôn làm cái trò giả bộ thân thiết với tôi như thể anh ta là người đồng cấp thay vì trên quyền.
"Tôi có thể tự về được, không cần."
"Có một việc tôi cần anh làm cho tôi trên đường trở về."
"Đó là việc gì?"
"Có một chồng đồ giặt của chúng ta ở khoang y tế số năm. Khi anh trở lại, hãy mang nó cho tôi."
"Tại sao nó lại ở đó?" Tôi hỏi. Căn phòng đó gần nơi tôi ở, trong khi anh ta ở một khu hoàn toàn khác của khu phức hợp, vì vậy việc để quân phục ở đó có chút khó hiểu.
"Tôi đang mang giở đống đồ đó khi chuông báo động kêu, vì vậy tôi đã để tạm đồ lên trên chiếc tủ nhỏ."
Tôi sẽ tin lời anh ta. Cũng không phải là việc của tôi.
"Tôi sẽ ở trong phòng của tôi nếu anh cần bất cứ điều gì: 303, khu tây bắc," anh ấy nói với một nụ cười đầy chất ngoại giao trước khi chào tạm biệt tôi.
Đi bộ đến khoang y tế mất mười lăm phút. Tôi cảm tưởng như thời gian quay ngược ba mươi năm ngay khi bước vào. Mùi ẩm mốc đặc trưng của những căn phòng thiếu hệ thống thông gió bám vào tường, và nóc những chiếc tủ cao đối diện tôi phủ một lớp bụi trường tồn. Hai hộp sơ cứu màu cam, có in dòng chữ Antechka Individyadchnaya, được đặt bên trong chiếc kệ lùn dí ở bên phải tôi, và đống chỉ khâu, dao mổ và kẹp cầm máu sẽ nằm trong đó, giả sử chúng chưa bị đánh cắp. Tôi thường mượn chúng để làm mấy việc lặt vặt như sửa bộ đồng phục của mình, và miễn là tôi trả lại chúng trước khi mặt trời mọc, tôi sẽ không gặp rắc rối gì.
Nơi này từng là một phòng y tế giường đơn thứ thiệt, và mặc dù chiếc giường đã biến mất nhưng những vệt máu loang lổ, chằng chịt vẫn hằn trên tấm thảm màu đỏ vẫn tố cáo số lượng người đã trải qua những cơn thập tử nhất sinh trong căn phòng này.
Đống quần áo của Petrov được đặt ngay ngắn trên tủ. Thoạt nhìn, có thể thấy người phụ trách giặt những bộ quần áo này thực sự đã làm tốt công việc của mình. Khi tôi bước tới để lấy nó, mắt tôi bắt gặp một thứ gì đó kỳ lạ.
Từ bên trong chiếc hộp các tông cạnh tủ, những sợi vải màu vàng rủ xuống bên mép. Chúng trông đủ mịn để tôi lầm tưởng chúng là một dải ruy-băng đồng nhất nhưng khi tôi nhìn kỹ hơn, tôi nhận ra nó được làm từ hàng nghìn sợi chỉ mảnh. Giống . . . tóc.
Không thể nào. Làm thế nào một ai đó có thể mọc tóc dài như vậy trong thời tiết này?
Tôi chộp lấy khẩu súng lục của mình, tháo chốt an toàn và nhắm vào chiếc hộp trong khi rón rén lại gần. Có một người bên trong, đang ôm mình, cuộn tròn như một bào thai. Anh ta có vẻ bất tỉnh và không phản ứng ngay cả khi tôi lẻn đến gần.
Không nhấc ngón tay khỏi cò súng, tôi soi xét kỹ hơn. Ẩn bên dưới những lọn tóc rối bời che khuất mắt trái là làn da trắng như sữa, có chỗ còn hơi tái lại bên đôi má phính. Anh ta đang mặc thứ gì đó có vẻ là một loại áo choàng dài màu trắng với một lớp lót màu xám tinh tế trên đầu. Tuy nhiên, không giống như áo choàng, trang phục này không che cánh tay và được cố định trên cơ thể bằng hai dây viền ren trắng duyên dáng vắt qua vai. Chiếc áo choàng phồng ra ở vùng thắt lưng và che phủ đến tận gót chân, khiến anh ta trông như đang vận một chiếc ô lên người vậy.
Người này có phải là thường dân không? Tới từ trại A ư? Không thể nào. Nông dân và công nhân đã được sơ tán hết rồi. Ngay cả khi anh ta là nông dân, không nông dân nào sẽ mặc thứ gì đó có thể khiến họ vấp ngã khi đang làm việc hoặc khiến họ chết cóng.
Nguồn ánh sáng lay lắt trong phòng khiến tôi khó có thể nhìn rõ anh ta, nhưng ít nhất anh ta có vẻ không mang theo vũ khí.
Anh ta có phải là gián điệp không?
Tại sao một điệp viên lại mặc bất cứ thứ gì thế này chứ? Tại sao lại trốn bên trong một thùng các tông? Trong tất cả các nơi có thể trốn, tại sao lại ở nơi này? Cái khoang này hoàn toàn có thể được sử dụng cho các ca phẫu thuật quan trọng. Tôi dám chắc rằng một hoặc hai người sẽ sử dụng căn phòng này trong một giờ nữa.
Tuy nhiên, có điều gì đó cho tôi biết rằng anh ta không chỉ ở đây để trốn nhiệm vụ dọn dẹp.
Tiếng bước chân lộc cộc vang lên từ hành lang. Có vẻ như hai người đang đến gần. Một trong số họ nói điều gì đó đại loại như, "Chúng ta phải dùng đến một trong mấy khoang này."
Mẹ nó, mẹ nó, mẹ nó nữa.
Tôi nhìn lại con người trốn trong hộp. Cách xử trí an toàn nhất là giao nộp anh ta. Nhưng tôi biết rõ Dzyuba. Ông ta có thể chửi tôi ra trò chỉ vì tôi đang ở đây ngày bây giờ. Tệ hơn nữa, ông có thể sẽ muốn bôi nhọ tôi, khép tội cho tôi rằng tôi cũng là một gián điệp, hoặc một cái gì đó ngu ngốc tương tự như thế.
Tôi sẽ để anh ta ở đây. Sẽ có người khác tìm thấy anh ta, và khi đó anh ta sẽ không phải vấn đề của tôi nữa.
Tôi lùi lại, trở ra. Một giọng nói trong đầu tôi vang lên, "Mày còn bảy ngày nữa."
Bảy ngày. Những từ đó đâm rầm vào trong óc tôi như một vụ nổ từ chiếc T-72. Tôi đang phải hoàn thành một mật vụ. Tôi đã không có đầu mối nào ra hồn, và bây giờ, tôi đột nhiên tìm thấy một kẻ xâm nhập kỳ quặc ư? Anh ta có thể không liên quan gì đến những gì tôi đang tìm kiếm, nhưng tôi phải thử.
Nhưng làm thế nào để tôi quay lại phòng của mình khi cõng theo một người mặc áo choàng trắng chết tiệt thế này? Tôi sẽ trông hệt như một con gấu trong rạp xiếc.
Tiếng bước chân ngày càng lớn. Những kẻ ngoài kia sẽ sớm rẽ vào khu này thôi.
Kệ mẹ nó. Đến đâu thì đến.
Tôi kéo kẻ lạ mặt ra khỏi hộp và khoác tay anh lên vai tôi. Anh ta không chống cự khi tôi bế anh ta ra khỏi khoang và đi theo con đường quanh co trở về khu của mình.
~ Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái vote để ủng hộ truyện nhé!~