- A ! Anh Đỗ về, bác ơi !
Thằng Thụy reo lên khi vừa trông thấy một bóng người xuất hiện trước hiên nhà. Người thanh niên giơ một cánh tay ra, chờ đợi. Thụy đứng dậy. Nhưng rồi nó đứng yên ở chỗ cũ. Không phải nó khước từ sự ôm lấy cánh tay đó và đu cao người lên như mọi lần. Mà nó ngần ngại vì nom thấy cánh tay trái băng bột của người đứng trước mặt.
Thụy kêu lên hoảng hốt:
- Anh Đỗ ! Anh sao vậy?
Đỗ chưa kịp trả lời, đã thấy bác Liêu đang đi ra. Giọng bác hấp tấp:
- Cái chi? Ai? Thằng Đỗ mô?
Và bác đứng sựng lại. Cánh tay băng bột là cái duy nhất để mọi người nhìn vào. Bác Liêu nói lắp bắp:
- Mi bị răng rứa …Đỗ?
- Con bị thương, ba ạ. Nhẹ thôi.
Bác Liêu trợn to đôi mắt:
- Nhẹ? Nhẹ mà như rứa à? Răng mà….cái chi cứng ngắt như ri, tay mi chịu răng nổi?
Vừa nói bác Liêu vừa sờ lên lớp băng bột dày cứng như xi- măng. Thằng Thụy ngơ ngác. Nó không tài nào tưởng tượng nổi đằng sau lớp “xi măng” đó là cái gì. Một vết thương. Nó biết như vậy. Nhưng có đau nhức như hồi kia có lần nó bị té lõa đầu gối không? Thụy hỏi:
- Tại sao lại băng thế này, hở anh Đỗ?
Bác Liêu nói ngay:
- Khoan, Thụy con khoan hỏi, để anh Đỗ ngồi đã nờ. Đỗ, mi ngồi xuống đi. Mi ăn chi chưa? Ba đi mua phở i ăn hỉ !
- Thôi ba, con ăn với anh em trên tiểu đoàn rồi. Còn ba, ba đã ăn cơm chưa?
- Rồi, ba ăn từ chạng vạng. Nhà có ai mô? Ba chờ ai bây chừ mà ăn cho trễ? Mới ăn xong có thằng Thụy qua chơi, biểu ba vẽ cho nó làm lồng đèn ngôi sao. Ba mới tìm ra mấy cọng tre, thì mi về.
Bác Liêu ngồi xuống bên cạnh Đỗ, hỏi với giọng âu lo:
- Răng mi nói là mi đi Căm-Bốt, yên ổn, thảnh thơi lắm? Rứa rồi mi lại bị thương…
Đỗ trấn an cha:
- Con đã nói là con bị nhẹ thôi. Nhưng phải băng bột là vì bị gãy xương…
- Gãy xương?
- Chi mà ba hoảng rứa? Miểng đạn làm gãy một cái xương nhỏ ở cánh tay. Băng bột như ri, độ một tháng là khỏi, ba nờ.
Thằng Thụy hỏi:
- Miểng đạn….chui vô trong thịt lận hả anh?
- Ừ, phải chui vô thịt thì mới đến xương.
Thằng bé thêm một điều thắc mắc:
- Rồi…nó có chui ra không anh?
Hai cha con bác Liêu không nhịn được cười. Đỗ nói:
- May phước là nó chui ra. Vì vậy tay anh có hai vết thương. Nè Thụy, em muốn coi vết thương không? Nếu muốn, khi mô anh lười, anh không lên bệnh viện, anh qua nhờ chú y tá xóm mình băng dùm, em đi theo mà coi.
Thụy như vẫn chưa hết ngơ ngác.Nó thấy anh Đỗ hôm nay mới thật là thay đổi, thay đổi nhiều hơn cả cái ngày anh mặc bộ đồ lính lần đầu tiên. Ngày đó, anh trút bỏ lớp thư sinh hiền lành để làm một người oai dũng. Trong tâm trí Thụy, anh trở thành một “người hùng”, ít ra là đối với một thằng bé như nó. Nhưng hôm nay, cánh tay trái của anh đã bị bó lại bằng một khối bột trắng và cứng ngắt, đã bị treo ngang ngực bằng một sợi dây quàng qua cổ. Anh có đau đớn nhiều không? Mà sao anh vẫn cười nói tự nhiên? Một cánh tay của “người hùng” đã bị treo lên, có nghĩa là cuộc đời đã có một tí thay đổi chăng? Thụy chỉ nghĩ được đến đó.
Đỗ cúi xuống tháo dây giầy. Và Đỗ đã nhìn thấy đôi dép của mình sắp ngay ngắn dưới gầm đi-văng. Đỗ cởi giầy, xỏ chân vào đôi dép. Kể đã hơn một tháng anh xa nhà. Nhưng đôi dép vẫn trơn láng sạch sẽ. Đỗ nhìn bác Liêu. Trong một thoáng thời gian lặng yên, Đỗ nghe bồi hồi trong lòng. Mỗi một vật dụng của Đỗ để lại nhà đều được bác Liêu sắp đặt và chăm sóc. Chiếc áo mưa treo trên tường, cây đàn dựng trong góc nhà, đôi dép sắp dưới đi-văng. Đỗ bỗng thấy thương căn nhà quạnh quẽ nghèo nàn của mình, nơi có một bóng già ngày ngày thui thủi mong chờ buổi con trai trở về. Hôm nay Đỗ đã về để nhận thấy vầng trán của cha nhăn hơn một chút, mái tóc bạc thêm một chút, và dáng đi, giọng nói có vẻ yếu hơn một chút.
Bác Liêu xách đôi giầy của Đỗ để sang một bên. Bác nói:
- Chứ răng mà đôi giầy của mi bùn đỏ chạch ri nè? Mi không xin đôi mới mà mang?
Đỗ cười:
- Ba lo chi từng chút? Giầy nhà binh mà ba biểu sạch sẽ bóng loáng răng được? Ri là sạch được một nửa rồi đó ba, vì con đi riết….nó bở bùn ra, rơi rớt bớt rồi. Còn hồi ở Căm-Bốt mới về, ba biết răng không?
- Chắc mi dơ lắm?
Đỗ cười vang:
- Còn hơn rứa nữa ba. Từ đầu xuống chân của con chỉ toàn màu đất. Dơ và hôi không chịu nổi. Còn đôi giầy ni, là hai khối đất bó hai chân lại. Ba tưởng tượng nổi không?
Bác Liêu giật mình, lắc đầu:
- Tau thiệt không ngờ, có ngày mi cực khổ như rứa. Mới hành quân lần đầu mà phải đi xa.
- Chứ có ai đi hành quân ở thành phố mô ba?
Bác Liêu chép miệng:
- Thì đành rứa. Nhưng…người ta đi hành quân trong nước, chứ có ai mà đi qua tận bên Miên bên Lào.
Đỗ thở ra:
- Ba ơi, thứ lính con đi phải chấp nhận đi xa, và cực khổ.
- Tại mi hết, mi chọn làm chi cái nghề nớ? Ba đã biểu mi cố học cho thành tài, ra trường làm ông này ông nọ…
- Khi mô con về ba cũng nhắc lại chuyện học. Mỗi người có một cách chọn lựa ba à.
Rồi Đỗ chợt nhìn thấy đôi mắt của thằng Thụy đang ngó anh. Như hai hòn bi trong vắt, đôi mắt của thằng bé thật dễ thương. Nét mặt ngây thơ của nó làm anh bật cười. Tiếng cười như khuấy tan sự nặng nề giữa hai cha con. Bác Liêu đến trước bàn thờ, thắp ngọn đèn dầu lên, nói:
- Thôi, nói cho vui rứa chứ chuyện chi cũng đã yên cả rồi. Tới thắp nhang ạ mi đi .
Rồi bác ra ngồi ở chiếc ghế dài trước sân. Đỗ đứng dậy tiến đến bên bàn thờ mẹ. Khung ảnh sáng mờ mờ dưới ngọn đèn dầu lung linh. Đỗ thắp một cây nhang cắm vào chiến bình hương cũ kỹ. Tro đã đầy ắp cả bình cũng như những thương nhớ không bao giờ vơi được. Đầu óc trống rỗng. Đỗ không biết phải khấn vái điều gì. Mẹ chắc cũng đã phù hộ cho anh thoát khỏi tai ương khi trái đạn nổ to nhức óc lúc anh bò chưa kịp ra đường cái, vì anh bị vướng một cành cây ngang chân. Mấy người lính ra tới nơi trước anh đã chết không toàn vẹn. Đỗ bị thương nơi cánh tay, một vết thương phải nói là thật nhẹ, nhẹ nhất so với các vết thương, mặc dù trước mắt bác Liêu, nó là một tổn hại quan trọng, và trước mắt Thụy, nó là một cái gì thật lạ lùng và mới mẻ, khó mà tưởng tượng nổi.
Đỗ cắm cây nhang xong, quay lại đã thấy bác Liêu đặt trên bàn một ly nước trà. Bác chỉ vào đó, nói:
- Trà chanh đường đó con. Mi thích thứ nớ, uống hết đi cho khỏe.
Đỗ ngồi xuống bên cha, hỏi nhỏ:
- Ba nè, mai mốt con mới lãnh lương. Ba còn tiền xài không?
Bác Liêu “Ôi chào” một tiếng và tiếp:
- Mi khỏi lo cho tau. Tau có nghề mà.
- Nghề chi, ba?
- Tau quen bác Cai Tòng, đi theo bác làm hồ ở mấy nơi gần đây, cũng đủ tiền rượu thuốc.
Đỗ kêu lên:
- Trời ơi, răng ba phải làm…
- Chừ tới phiên mi hoảng. Làm nghề gì cũng là một nghề để sinh nhai. Mi cứ lo công việc của mi, khỏi bận tâm.
- Nhưng mà… ba làm việc nớ nặng nhọc lắm, con không yên lòng.
Bác Liêu vỗ tay lên vai con, nói như thuyết phục:
- Con nè, mỗi người phải có một việc để làm. Ngồi không, nó hư người đi. Ba đã già yếu mô mà con muốn ba phải ngồi không? Là m hồ cũng chẳng nặng nhọc chi mô. Xưa ba làm cai, nay ba làm phu, thiết nghĩ chẳng có gì đáng áy náy cả. Cũng đều là nghề xây dựng mà thôi. Con có biết, mỗi ngày ba lãnh được ngót một ngàn đồng. Khá ghê không? Con khỏi ái ngại cho ba mỗi khi con đi xa.
- Ba! …
- Ba không đi theo mi được mô, có ai mà chăm sóc? Đi vô rừng sâu muỗi độc nó cắn à ròm người.
Bác thở ra, nói như cho chính mình nghe:
- Vừa vừa vậy, chứ khổ quá…tau cưới ột “mụ vợ”, dẫn đi theo, nó săn sóc cho.
Thằng Thụy đang mân mê vót những thanh tre, bỗng đưa bàn tay che miệng cười rúc rích. Bác Liêu nói:
- Cười chi? Mi con nít, lo mi đi!
Đỗ uống hết ly nước, nói:
- Tại ba nói “dị” quá mà không cười răng được? Con như ri mà ba nói tới chuyện cưới vợ.
- Chứ răng? Mi còn đợi tới bao lâu?
Đỗ nói bừa:
- Còn lâu lắm ba à. Con còn …nhỏ dại….
- Nhỏ dại, nhỏ dại…
Đỗ lẩm bẩm:
- Mấy ông bà già… răng cứ hay muốn tụi con nít lấy vợ lấy chồng?
Bác Liêu trợn tròn mắt:
- A chớ răng, không lo chuyện nớ thì lo chuyện chi?
Đỗ giơ cánh tay lành lên, xá xá, nói đùa:
- Thôi ba ơi cho con xin. Cho con năm năm nữa.
Bác Liêu cười xòa:
- Lôi thôi quá hỉ ! Thôi con đi nằm đi. Cái tay ra răng? Có đau nhức nhiều không?
- Hơi ê thôi ba. Con nằm “bệnh viện dã chiến” ngoài đồng ruộng bên nớ rồi mới về bệnh viện thật sự để băng bột, bây chừ đã gần lành rồi. Ba đừng lo.
- Thiệt, tau…
Bác Liêu bỏ lửng câu nói rồi đi vào phòng trong giăng mùng. Đỗ nói:
- Ba ngủ sớm rứa? Ba nghỉ trước đi, con ra ngắm trăng với bé Thụy một chút.
Thụy ngước lên, ngạc nhiên:
- Anh Đỗ cũng biết hôm nay có trăng?
- Anh còn biết bữa ni mười hai âm lịch nữa chứ. Trăng chưa tròn mô, nhưng chắc cũng đẹp chán.
- Vậy anh ra sân đi, em không vót tre nữa, ngày mai em làm tiếp.
- Em định làm lồng đèn chi rứa?
- Bác dạy em làm đèn ngôi sao.
Đỗ lắc đầu:
- Đèn ngôi sao thường quá. Làm kiểu khác nhé!
- Vậy anh dạy em đi.
- Làm chiếc tàu của anh, được không?
Thụy sáng mắt lên, reo:
- Hay quá! Anh Đỗ làm dùm em cái sườn nghen!
- Là cái chắc, nhưng….
Đỗ ngập ngừng. Đỗ muốn đổi ý. Anh muốn bảo với thằng bé rằng hãy cứ làm đèn ngôi sao cho có vẻ con nít, có vẻ ngây thơ, đừng làm tàu chiến, tàu đổ bộ….Nhưng Đỗ đã lỡ nói rồi, nếu anh đổi ý thì thằng bé sẽ cho rằng anh nói “phịa”. Đỗ gật đầu:
- Ờ, để anh làm dùm cái sườn.
Thụy khoái chí:
- Thế nào đèn của em cũng lạ nhất xóm.
Hai anh em ra ngoài sân. Trước hiên gió thổi mát rượi. Đỗ chỉ cho Thụy nhìn lên vầng trăng nấp sau những nhánh lá của cây mận sum suê. Khuôn trăng chưa đầy nhưng vẫn mang một vẻ mộng mơ diễm ảo. Ánh sáng trong xanh tỏa lan khắp xóm nhỏ làm Đỗ nghe lòng lắng dịu lại. Đã trải qua bao nhiêu ngày căng thẳng vì chiến trận rồi. Đỗ tìm lại một khoảng bình yên ở không gian này, ở thời điểm nầy. Một quãng nhỏ của thời thơ ấu bỗng hiện ra trong trí nhớ. Ngày xưa đã có lúc Đỗ mơ mai sau trở thành nhà khoa học thám hiểm mặt trăng. Đỗ thường nhìn vầng trăng đầy bí ẩn đó mà nghĩ đến thật nhiều điều huyền diệu. Có lúc Đỗ lại mơ mình làm kiến trúc sư lên mặt trăng xây cất thật nhiều cung điện, tưởng tượng có một tiên nữ dịu dàng, một Hằng Nga nào đó ra vào nơi cung điện thướt tha. Nhưng từ lúc lớn khôn, Đỗ đã nhìn trăng bằng một con mắt khác. Và phải nói là từ lúc nếm mùi gian khổ, anh đã nhiều lần ao ước mảnh trăng xa xôi mà gần gũi đó, huyền bí mà cũng rất thân mật đó, sẽ chiếu rọi bình yên nơi những xóm thôn. Ở những nơi mà Đỗ đã đi qua, chưa bao giờ thấy được một đêm trăng thanh bình. Trăng đã trở thành một thứ xa xí phẩm, và ngắm trăng là một thói quen đã bị bỏ quên.
Bỗng Thụy đập khẽ vào tay Đỗ, nói:
- Anh Đỗ thấy gì không?
- Thấy gì?
Thụy chỉ tay lên trời:
- Trong mặt trăng đó, anh thấy gì không?
Đỗ nói theo thông lệ:
- Thấy rồi, con thỏ ngọc.
- Không phải.
- Chứ chi nữa?
- Chiếc tàu của anh. Mấy anh đang đổ bộ lên kìa!
Đỗ cười thành tiếng:
- Bé con thiệt có tài tưởng tượng chi lạ. Trên đó không có chiến tranh đâu.
- Vậy thì có hòa bình?
- Lại bắt chước radio, truyền hình nữa rồi. Cũng không có hòa bình nữa. Vì có người ở mô? Chỉ toàn là đất với đá.
Đỗ xoa đầu thằng Thụy, suy nghĩ. Thằng bé này giàu tưởng tượng lắm đây, mai sau sẽ trở thành nhà văn hay nhà khoa học? Năm nay Thụy đang học lớp Nhất. Nó sắp thi vào lớp Đệ Thất trường công. Nhà nghèo, nhưng cái nghèo vẫn không lấn át được trí thông minh và tài tháo vát của nó. Đối với Đỗ, đã từ lâu anh xem nó như đứa em ruột. Anh cũng đã là “thầy giáo” của nó một thời gian rồi. Nhà Thụy sát bên nhà anh, nó thường chạy qua chạy lại nói chuyện với bác Liêu. Vì thế cho nên giữa Đỗ và Thụy mặc nhiên đã có một tình cảm khá sâu đậm. Nếu sự già yếu của bác Liêu khiến Đỗ ưu tư thì sự ngây thơ hồn nhiên của Thụy giúp anh lấy lại niềm vui thanh thản cho mình. Đỗ nghĩ rằng như thế cũng quá đủ cho anh rồi.
Chừng như lúc này vầng trăng không đủ gợi cho Thụy một ý nghĩ gì thêm. Và chừng như đôi mắt nó đang trít lại. Thụy che miệng ngáp, nói:
- Em về nhà nhé anh Đỗ.
- Mới tám giờ mà buồn ngủ rồi hả?
- Em còn học bài một tí. Mai em qua. Anh Đỗ còn ở nhà được bao lâu?
- Còn dài dài mà bé. Rảnh cứ qua đây, anh chỉ cho làm lồng đèn tàu đổ bộ, hỉ!
Thụy “dạ” rồi chạy vụt về nhà. Đỗ nói vói theo:
- Nhớ nói anh Đỗ gởi lời thăm ba má hỉ !
Bóng của Thụy đã khuất trong đêm. Còn lại một mình Đỗ. Anh châm một điếu thuốc. Bỗng nhiên anh thấy nhớ thật nhớ bạn bè còn gian lao trên chiến trường. Trăng trên kia vẫn sáng mờ ảo. Đêm giống như một đêm thanh bình thật sự. Ở một nơi nào, vùng thôn quê ruộng đồng bát ngát hay vùng rừng núi hoang vu, các bạn của anh vẫn đang miệt mài chiến đấu. Cũng vầng trăng đó, nhưng không phải là trăng thanh bình. Cũng ánh sáng đó, nhưng không làm ngọn đèn cho lũ trẻ nhỏ đùa vui. Đỗ nghe ngậm ngùi khôn tả.
Có bóng ai thấp thoáng sau rào. Đỗ nhướng mắt nhìn ra. Một người con gái, dáng nhỏ nhắn thanh tao, đang ngừng bước trước nhà Đỗ. Người đó hình như chùn chân lại vì thấy trong nhà tắt đèn tối om. Đỗ lấy làm lạ. Ai lại đến nhà mình trong lúc này? Anh lên tiếng:
- Xin hỏi ai đó?
Người con gái tiến lại một bước, nói nhỏ:
- Dạ thưa…
Ồ, một giọng nói thật êm, quá êm- Đỗ nghĩ nhanh như vậy, rồi hỏi tiếp:
- Cô tìm ai?
- Dạ thưa…đây có phải là nhà của ông Đỗ không ạ?
Đỗ lại thêm một điều ngạc nhiên nữa. Nhưng anh chưa tự xưng tên mình, mà hỏi:
- Xin lỗi, cô tìm anh Đỗ có việc chi?
Bây giờ cô con gái bước đến ngay trước mặt Đỗ. Qua ánh vàng trong trẻo của trăng, Đỗ nhận ra cô gái có một gương mặt hiền lành dễ mến. Cô gái e dè hỏi:
- Dạ thưa, ông Đỗ có vẫn mở lớp dạy kèm Toán Lý Hóa không ạ?
Đỗ giật mình. Cô gái lại đưa ra một tờ báo hơi cũ, nói:
- Thưa ông, tôi đọc thấy lời rao trong tờ báo này. Tôi…đến hỏi mặc may, hy vọng lớp vẫn còn mở.
- Cô xin học?
- Dạ…. vâng.
Đỗ cầm tờ báo, giở ra mục “Rao vặt”. Đây rồi, Đỗ vẫn chưa quên góc báo đăng những dòng chữ: “Một nhóm sinh viên Khoa Học nhận dạy Toán Lý Hóa tại nhà riêng. Học phí rất nhẹ. Xin liên lạc Nguyễn Thi Đỗ, số nhà…….đường….”.