Trước tiên, thành lâu phía tây vang lên hiệu giác cảnh báo địch quân tiến công. Lát sau, liền nghe tiếng nổ lớn trên thành lâu, trong tiếng pháo, ẩn ước nghe tiếng gào giết từ ngoài thành.
Lúc này, Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng đang giám đốc các thiết tượng dẫn đầu bằng lão hắc đầu chế tạo súng máy cực kỳ quan trọng trong xưởng chế tạo tại nha môn.
Súng máy còn chưa chế tạo ra, súng bộ thương Lão sáo đồng chỉ chế được 6 cây. Do đoạn thời gian này hắn toàn tâm toàn ý tập trung vào chế tạo súng máy maxim, cho nên không tiến hành giảng dạy cách sử dụng súng bộ thương Lão sáo đồng này cho các hộ vệ, ngay cả Lưu Dũng cũng không biết dùng, ngoại trừ hắn ra không ai biết cả, quả là thất sách.
Ôm chân phật khi nước tới trôn là không thể, hắn ra lệnh cho lão hắc đầu tiếp tục tạo súng máy, khi tạo xong trực tiếp mang lên thành lâu. Hắn đế Liễu Nhược Băng lên thành lâu phòng thủ trước, sau đó tự chạy vào trong lấy một cây Lão sáo đồng, mang theo một thùng đạn đã lắp sẵn, bảo Lưu Dũng cùng các hộ vệ vác mấy chục quả tạc đạn bằng đá vội chạy ra Tây thành, trèo lên thành lâu.
Dương Thu Trì từ sau công sự quan sát, nhờ có ảnh lửa chiếu, có thể nhìn thấy xa xa đầy đầu người, tiếng quát giết vang trời đang xông về phía này.
Dương Thu Trì vội hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, địch tình thế nào?"
Long Bỉnh vô cùng khẩn trương: "Không rõ, vừa rồi lính gác ở trên núi đốt lửa cánh báo, biểu kỳ địch quân đang tấn công về hướng này, ta mới hạ lệnh thổi hiệu giác báo động. Tiếp đó, địch quân đã xông lên. Nhưng lần này từ tình huống di động mà xét, tựa hồ không phải kỵ binh, mà là bộ binh, hơn nữa tốc độ khá chậm, ta lo là địch quân đang kéo hỏa pháo đến!"
Dương Thu Trì khẩn trương: "Hỏa pháo?"
Bên hắn có gần 20 hỏa pháo, địch nhân khẳng định có nhiều hơn. Xem ra, địch nhân biết tạc đạn của hắn lợi hại, không dám thự hiện chiến thuật biển người tấn công dày đặc, mà chuyển sang dùng hỏa pháo bắn xa quấy nhiễu.
Hỏa pháo cổ đại thường bắn đạn thật tâm, nhiều lắm là sử dụng thêm khai hoa đạn (đạn nổ bung ra mảnh đạn) dùng thuốc nổ đen. Loại tạc đạn này uy lực rất nhỏ, chỉ có ở sát điểm nổ mới thụ thương, không cần phải lo. Minh quân, Đồng binh và bá tánh tham chíên đối với loại tạc đạn này hiểu rất rõ, đều ẩn sau thành đóa rất dày.
Pháo đạn của địch quân nổ trên thành tường, đều là đạn khai hoa, không tạo thành thương vong gì lớn.
Long Bỉnh hạ lệnh ẩn nấp, chờ địch quân bức gần rồi phản kích, do đó, họ chỉ im lìm nghe pháo hỏa của địch quân không ngừng nổ trong ngoài thành.
Địch quân dường như không gấp cường công, vừa dùng hỏa pháo tập kích lên thành lâu, vừa từ từ tiến bước.
Dương Thu Trì rất phiền vì chuyện chỉ bị đánh mà không thể đánh trả, ra lệnh cho nhồi đạn vào các hỏa pháo phất lãng cơ (Chú: Nhà Minh phỏng chế lại pháo của Bồ Đào Nha du nhập vào (từ năm 1522 đời Gia Tĩnh), gọi pháo đó là Phất lãng cơ (theo tên phiên âm của Bồ Đào Nha). Năm 1524 chế được 30 khẩu, mỗi khẩu nặng 300 cân. Đặc điểm của pháo thời này là phối theo kiểu mẫu tử: mẫu súng dài to, có tử súng nhỏ lồng bên trong. Thường nhà Minh trang bị cho quân đội phía Bắc và hải quân. ND). Loại hỏa pháo này sau khi bắn xong, ống chứa thuốc có thể lấy xuống (thực ra là tử súng), đổi bằng ống thuốc súng đã điền sẳn, sau đó bắn lần hai, nguyên lý giống như đổi đạn pháo ngày nay vậy.
Sau khi lắp đạn xong, hắn hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, hỏa pháo của chúng ta có thể đánh trả không?"
Long Bỉnh cười khổ: "Không được, dương đại nhân, địch quân sử dụng hồng di đại pháo (loại pháo lớn mua của các thương gia phương Tây). Loại pháo này có đường bắn xa, gấp đôi hỏa pháo của chúng ta. Hiện giờ chúng đánh tới chúng ta, nhưng hỏa pháo của chúng ta không bắn tới. Nếu không, ta đã sớm yêu cầu ông dùng khai hoa pháo đạn diệt bọn thỏ này rồi!"
Thời Minh mạt, hỏa pháo tự chế của Minh triều theo hình loa kèn, ống pháo ngắn, nòng pháo cụt như vậy nên bỏ thuốc súng vào ít, trình độ kín khí không cao, vì thế bắn gần, rất dễ nóng, tốc độ bắn chậm. Ngoài ra, Minh triều tự chế súng đều từ đồng, tuy trọng lượng nhẹ, nhưng co giản dễ, nên bắn vài phát là biến hình, ảnh hưởng đến xạ trình và độ chính xác.
Nếu so ra, hồng di đại pháo chế toàn bằng sắt, độ cứng cáp và kín khí cao, trước nhỏ sau lớn, phù hợp quy tắc biến hóa ép nòng, pháo thân sử dụng cách đúc khuôn, đáp ứng yêu cầu khoa học, phối hợp với những thiết bị phụ trợ nên chất lượng rất cao, tỷ lệ thích hợp, tỷ lệ nổ nòng thấp.
Do thân pháo dài, bỏ nhiều thuốc, tầm bắn rất xa. Pháo tự tạo của Minh triều chỉ bắn xa khoảng 3 dặm, thì hồng di đại pháo có thể bắn xa 7-8 dặm.
Do đó, hồng di đại pháo của quân đội Trương Hiến Trung có thể bắn lên thành tường, nhưng pháo đồng của Dương Thu Trì chẳng có cách gì bắn trả.
Dương Thu Trì tức đến phát điên, nhưng không còn cách nào, chỉ còn chờ địch quân đến gần.
Nhưng địch quân dường như biết đối phương không có hồng di đại pháo, biết khai hoa đạn bằng đá có uy lực cực mạnh của đối phương không bắn xa được, nên đến ngoài tầm bắn của đồng pháo là dừng lại, không ngừng dùng hồng di đại pháo phá tường thành, không tiến công.
Cứ như vậy hơn một thời thần, do hồng di đại pháo bắn có đang thật tâm (xem hình) và đạn khai hoa (xem hình), nên đã tạo thành con số thương vong mấy chục người cho Minh quân và Đồng quân trên thành, tường thành cũng bị phá tan nát, binh sĩ nấp sau thành đóa có không ít người bị đập cho thương tích đầy mình.
Địch quân không tiến công cũng hay, Dương Thu Trì nghĩ vì dù sao thì hắn cũng chỉ có mấy chục quả tạc đạn, căn bản không thể chống lại tiến công đại quy mô. Nhưng nếu cứ như thế này không cũng không phải là cách hay. Đang lúc hắn suy nghĩ xem nên làm thế nào, thì ba phương hướng đông, nam, bắc khác đồng thời nổi lên tiếng quát giết! Ba thành lâu ở đó đều đốt pháo lửa cảnh báo địch quân phản công, tiếng còi hiệu vang khắp nơi.
Chính vào lúc này, địch quân phía trước hắn trống trận dập dồn, tiếng hét vang trời, như thủy triều cuốn tới xung phong!
Dương Thu Trì đại kinh thất sắc, thì ra là địch quân ở trước mặt chờ đợi địch quân ở 3 phương hướng khác rồi mới hành động theo, tiến công cùng lúc.
Địch quân có 3 vạn người, cho dù binh phân 4 đường thì mỗi đường cũng 7 nghìn hơn.
Trong khi đó quân thủ thành tổng cộng chỉ có sáu nghìn người, trong đó 1 nghìn Đồng quân đã phái đi vận chuyển quặng mỏ, còn lại 5 nghìn thì 4 nghìn đang ở tây thành, nhân vì Kiềm Dương cổ thành có 3 mặt là núi, chỉ có phía tây là bằng phẳng, có lợi cho tiến công đại quy mô.
Ba mặt khác đều là núi cao rừng rậm, không thích hợp tác chiến đại quy mô, cho nên Long Bỉnh phụ trách phòng thành đã chia binh lực các nơi đó chỉ đủ 500 người, còn chủ lực 3 nghìn 500 người tập trung ở phía tây.
Sắp xếp như vậy đương nhiên không có vấn đề, nhưng không ngờ địch quân sau khi triệt lui 20 dặm mấy ngày trước đã lập tức phân binh, chỉ lưu 1 vạn 5000 binh ở lại, còn lại chia ba đội, ẩn mật vu hồi lẻn về ba phương hướng, tiếp cận thành vào ban đêm, ước định khi trời sắp sáng thì đồng thời tấn công.
Chính diện địch quân như triều, nhanh chóng tiến vào tầm bắn của Phất lãng cơ.
"Phóng!" Dương Thu Trì quát lớn.
Mấy khẩu phất lãng cơ đồng thời gầm lên, miệng pháo phun lửa, mấy tạc đạn bằng đá bay ra, rơi vào địch quân.
"Oành oành oành...!"
Một loạt tiếng nổ lớn xé rách thi thể binh sĩ địch quân, nhưng nhờ ánh lửa, Dương Thu Trì phát hiện thi thể bị bay đi của địch quân không nhiều như lần trước!
Như vầy là thế nào?
Cho dù tốc độ bắn của Phất Lãng Cơ đã khá nhanh, nhưng địch quân xung phong với tốc độ nhanh, khi lần bắn thứ hai vừa xong thì chúng đã cách tường thành mấy trăm mét. Mấy tiếng pháo nổ, có không ít địch quân bị xé nát bay tung.
Nhờ hỏa quang, Dương Thu Trì cuối cùng nhìn rõ, thì ra là đội hình xung phong của địch lần này phân tán, tự nhiên chẳng thể nổ chết nhiều người.
Địch quân cũng là người, có đầu óc, xem ra mấy ngày nay chúng không nhàn, nghiên cứu ra cách đối phó tạc đạn của Dương Thu Trì, đã tránh xung phong dày đặc.
Lượt pháo thứ ba nổ, vô số địch quân ngã, nhưng 3 lần này số lượng chết không bằng 1 lần lúc trước! Và mọi tạc đạn của Dương Thu Trì đều đã dùng sạch rồi!
Đợt bắn thứ tư là đạn phổ thông dùng thuốc súng đen và thật tâm đạn.
Thấy uy lực của tạc đạn giảm, du kích tướng quân Long Bỉnh vội hỏi Dương Thu Trì: "Dương đại nhân! Sao thế? Đầu đạn bằng đá đâu?"
Dương Thu Trì không đáp, lòng lạnh hẳn.
Lúc này, địch nhân đã xông tới dưới thành, bắc thang mấy cường công. Liễu Nhược Băng như con nhạn lớn bay tung trên thành, đoản kiếm trắng lấp lóe hàn quang, chém giết địch quân tiến lên trên thành lâu.
Không ngờ, lần này công thành địch quân đều dùng hảo thủ võ công, tuy không bằng Liễu Nhược Băng, nhưng mỗi tên đều có thể đánh hơn mười hiệp với nàng, hơn nữa khi lên không liều mạng mà đánh xoắn ngăn chân tay nàng, để cho các quân sĩ khác cùng xông lên.
A Hạnh Ny và hơn chục thân binh Đồng quân đã bị địch quân đánh lên mặt thành bao vậy, đang liều mạng chém giết.
Dương Thu Trì không gia nhập chiến đoàn, võ công hắn chẳng hơn địch quân bao nhiêu, gia nhập không cải biến được gì. Rất may là trong tay hắn có cây súng lão sáo đồng Mauser 1888 của Đức quốc xã!
"Đùng! lách cách! Đùng.... Lách cách..."
Dương Thu Trì dùng tư thế quỳ bắn, dường như mỗi phát diệt một tên. Chỉ có điều, lần này hảo thủ võ công đánh lên không ít, chết tên này tên khác tu bổ vào, tiếp tục đấu rát với Liễu Nhược Băng. Còn quân sĩ của địch dù bị chết khá nhiều vì vũ khí thủ thành, nhưng do quá đông, nên điểm đột phá ngày càng lớn.
Trên thành lâu, hai bên bắt đầu triển khai trận chiến xáp là cà vô cùng khốc liệt.
NẠP THIẾP KÝ II