[i] Truyện những người kỳ lạ ở đất Nam Hải.
[ii] Có bản cho người khách xui đeo thanh kiếm vào tai ngựa, rồi nước ở chỗ ấy xoáy mạnh lắm, lâu ngày thanh kiếm cưa đứt cổ ngựa, cho nên mới hại.
[iii] Ở sử nói là bà mẹ ngài nằm mơ thấy giao cảm với thần núi Tiêu Sơn, có mang sinh ra ngài. Ông sư chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Vân nuôi ngài làm con nuôi, cho nên theo về họ Lý.
[iv] Truyện “Việt lam Xuân thu” có kể rõ các trận vua Lê Thái Tổ đánh quân Tàu.
[v] Truyện “Hưng Đạo vương” tiểu thuyết có kể rõ các trận đánh quân Tàu.
[vi] Đại nghĩa là đời (BT).
[vii] Tổ đầu của nhà Nguyễn, Phan Kế Bính viết quyển này trong năm Duy Tân thứ 6 nên mới tôn xưng như thế (BT).
[viii] Tức Quang Trung Nguyễn Huệ (BT).
[ix] Hàn Dũ đời nhà Đường, xin hủy tượng Phật và đốt sách Phật.
[x] Thủy Hoàng chôn học trò và đốt sách nho.
[xi] Dân chúng, chỉ mọi người (BT).
[xii] Quyển thi rọc tên ra, gọi là rọc phách. Đến lúc chấm văn xong lại dán tên lại gọi là hồi phách.
[xiii] Thế mới biết chủ nghĩa lý lịch áp dụng trong thi cử đã có cội nguồn từ xa xưa! (BT).
[xiv] Nghĩa là cửa ải nhà Tần nghe tiếng gà gáy. Ngày xưa Mạnh Thường Quân ở nước Tần trốn về Tề, ra đến cửa ải thì cửa ải còn đóng chưa mở. Lệ lính canh ải, hễ gà gáy thì mới mở cửa cho khách đi lại. Trong bọn đầy tớ Mạnh Thường Quân, có người giả làm gà gáy. Các gà cạnh đấy tưởng là trời sắp sáng, đua nhau gáy ầm cả lên, lính canh mới mở cửa, Mạnh Thường Quân vì thế chạy được thoát.
[xv] Lúc ngài còn nhỏ thường ngâm một câu rằng: “Trời chẳng già, đất chẳng già, năm hồ bảy miếu một mình ta”. Đến sau ngài đi kinh lược xứ Sơn nam, có bọn khách Tàu ở phố Hiếu vào hầu, trông hình dáng ngài y như tượng thần Ngũ hồ bên Tàu. Nhân hỏi ngài sinh ra ngày tháng nào, thì quả nhiên trúng về ngày tháng Ngũ hồ có sự biến lạ, hiện còn ghi vào bia bảy miếu ở bên ấy, mới biết khi ấy là thần Ngũ hồ giáng sinh.
[xvi] Tưởng, nghĩ, đoán liệu (BT).
[xvii] Đánh dẹp (BT).
[xviii] Nghĩa là chữ Ngọc giấu đi một nét chấm, thò lên thì là chữ chúa thụt xuống thì là chữ vương. Có ý khoe mình làm nổi vua chúa.
[xix] Nghĩa là chữ thổ cắt bỏ nửa nét ngang đi, phải thì là chữ thượng, trái thì là chữ hạ. Có ý chê kẻ kia phản nghịch.
[xx] Hợp binh lại để đánh dẹp (BT).
[xxi] Đuốc (BT).
[xxii] Nghĩa là anh hùng đời xưa nay hiếm có, công đức cho người ta được nhờ dài bằng với trời đất.
[xxiii] Quá ải chậm, người coi cải đóng ải, mời khách qua đường qua ải mà đi.
[xxiv] Ra đối dễ, làm lại đối khó, xin ông sinh trước đối trước đi cho.
[xxv] Đang lúc nắng nẫu nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Công (ý là đắc dụng với thời). Đến khi mưa tuyết lạnh ngắt, thì như ông Bá Di, ông Thúc Tề (ý là xếp xó một chỗ).
[xxvi] Nắng chẩy vàng tan đá, trời đất như lò lửa ngươi về lúc ấy ví như Y, Chu hai ông quan to. Gió bắc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường ngươi về lúc ấy ví như Di, Tề hai người chết đói. Than ôi! Khi dùng đến thì ra, khi không dùng đến thì cất đi, chỉ ta với ngươi được thế thôi.
[xxvii] Chạm vào ngựa của ta cưỡi ấy là người Đông di hay người Tây di?
[xxviii] Chắn đường lừa của ta đi, thử xem người phương Nam khỏe hay là người phương Bắc khỏe? (Câu ra thì dùng chữ sẵn ở sách Mạnh Tử, câu đối thì dùng chữ ở sách Trung dung cho nên hay mà tài)
[xxix] Chữ an (安) bỏ chữ nữ (女), chữ thỉ (豕) vào thì là chữ gia (家).
[xxx] Chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), chữ vương (王) đến thì là chữ quốc (国).
[xxxi] Lửa mặt trời, khói đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ ngọc.
[xxxii] Cung mặt nguyệt, đạn ngôi sao, chiều hôm bắn rụng cái ô vàng.
[xxxiii] Bốn chữ LI VỊ VÕNG LƯỠNG cùng có chữ QUỈ.
[xxxiv] Bốn chữ CẦM SẮT TÌ BÀ mỗi chữ có hai chữ VƯƠNG thành tám.
[xxxv] Chim đậu cành đọc sách Luận ngữ, có câu: Tri chi… (Nghĩa là: điều gì biết thì cho là biết, điều không biết thì cho là không biết, thế mới là biết). Có ý chê là tiếng nói như tiếng chim.
[xxxvi] Ếch kêu trong ao học sách Mạnh Tử, có câu: Lạc dữ… (Nghĩa là: nhạc cùng với nhiều người vui, nhạc cùng với ít người vui, thì đằng nào vui?). Có ý chê lại người Tàu nói như tiếng ếch.
[xxxvii] Con rùa sông Lạc báo triệu tốt, số trời chín, số đất chín, chín chín thành tam mươi mốt số, số số hợp thành ba đạo lớn, đạo hợp với Nguyên thủy thiên tôn, bởi một bụng thành cảm cách lên.
[xxxviii] Con phụng núi Kì trình điềm hay, tiếng đực sáu, tiếng cái sáu, sáu sáu thành ba mươi sáu tiếng, tiếng tiếng suốt đến chín từng trời, trời sinh ra Gia Tĩnh hoàng đế, cho muôn tuổi thọ dài lâu mãi.
[xxxix] Một đám mây trên trời xanh, một giọt tuyết trong lò đỏ, một cành hoa vườn thượng uyển, một vầng trăng ao Dao trì. Than ôi! Mây rã, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết.
[xl] Dời (BT).
[xli] Núi ấy có 72 ngọn, cây cối rườm rà u uất, mé tả là núi Kì Lân, mé hữu là núi Phụng Hoàng. Trên núi Phụng Hoàng có suối ngọt chảy ra thành nguồn, vòng quanh sườn núi chảy xuống đọng lại một chỗ, gọi là đầm Miết. Nước đầm ấy ngon lắm, rồi lại chảy quanh ra ngoài chân núi thông xuống sông.
[xlii] Thờ (BT).
[xliii] Tục truyền bà ấy tức ông Văn Định lên Sơn Tây lấy chồng khác sinh ra ông Phùng Khắc Khoan (tức là ông trạng Bùng).
[xliv] Ứng về sau nhà Lê khôi phục được nước.
[xlv] Ứng về sau nhà Trịnh lại giữ quyền nhà Lê.
[xlvi] Bị gió đùa (BT).
[xlvii] Hại ngầm (BT).
[xlviii] Ngày mồng một và ngày rằm (BT).
[xlix] Nghĩa là chim phụng hoàng làm tổ trên A các, con Kì lân ra chơi ở vườn Uyển hựu.
[l] a) Không phải con rùa ở sông Lạc Thủy.
b) Không phải con rồng ở sông Mạnh Hà.
c) Ấy kia nước Hữu Hùng (hùng nghĩa là con gấu).
d) Đóng đô ở gò Trác Lộc (lộc nghĩa là con hươu).
Câu nào cũng có giống cầm thú cho nên hay.
[li] Nghĩa là con vịt từ giã mẹ gà về hồ.
[lii] Nghĩa là: Tôi nghe quân tử xa chỗ bếp nước, lọ là phải nịnh vua bếp. Có ý chê làm việc đê tiện.
[liii] Nghĩa là: Ta cốt có chức làm được Tể tướng, nhưng còn tạm nấu nồi canh. Nấu canh lạt mặn tại tay, cũng như chức làm tướng.
[liv] Theo quan niệm xưa, con người chết đi vẫn còn giữ được phần tinh anh của mình (BT).
[lv] Người trong thiên hạ đều biết danh (BT).
[lvi] Báo việc tốt lành (BT).
[lvii] Nhà chỉ có con trai một (BT).
[lviii] Xử đúng luật pháp (BT).
[lix] Không bệnh (BT).
[lx] Tự là Mạn Thiến, có tài hoạt kê, sống vào thời Hán Võ Đế (Trung Quốc) (BT).
[lxi] Bài đủ tám câu nhưng tục truyền mất bốn câu dưới.
[lxii] Tài sản (BT).
[lxiii] Tập thơ cổ nhất của Trung Quốc, xếp vào hàng Ngũ Kinh (BT).
[lxiv] Bị truất bỏ (BT).
[lxv] An ủi, khích lệ (BT).
[lxvi] Các triều đại vua chúa (BT).
[lxvii] Xem truyện “Hưng Đạo Vương” thì rõ sự tích.
[lxviii] Không (BT).
[lxix] Nước Lào (BT).
[lxx] Đổi (BT).
[lxxi] Chỉ Trung Quốc (BT).
[lxxii] Bạn bè (BT).
[lxxiii] Truyền đời (BT).
[lxxiv] Đỗ Thành Nhân, Chu Văn Tiếp và Võ Tánh là ba kẻ hùng trong Gia Định.
[lxxv] Chỉ Gia Long (BT).
[lxxvi] Là nơi vua đi đóng quân ở đó.
[lxxvii] Hẹp hòi thô thiển (BT).
[lxxviii] Là võ tướng đời nhà Hán.
[lxxix] Trống không (BT).
[lxxx] Niên hiệu Gia Long năm thứ nhất, 1802 (BT).
[lxxxi] Theo đi đánh giặc (BT).
[lxxxii] Là ngôi Thái tử.
[lxxxiii] Trong bài thơ có câu kết: “Thử hồi nhược đắc sơn trung Tể, tá ngã kinh luân chuyển hóa ky”. Nghĩa là: Hồi này nếu được Tể tướng trong núi, giúp ta kinh luân chuyển động cơ trời.
[lxxxiv] Không theo phép tắc (BT).
[lxxxv] Việc nước (BT).
[lxxxvi] Tuần tự (BT).
[lxxxvii] Theo về phe địch (BT).
[lxxxviii] Vì cẩn thận quá mà chậm lụt (BT).
[lxxxix] Những người tù bỏ trốn (BT).
[xc] Là thổ mục Cao Bình, mộ binh theo Duyệt vào Gia Định, làm Phó vệ úy.
[xci] Là những thú đinh ngoài Bắc, Duyệt mộ làm lính cơ ở Bắc Thuận.
[xcii] Có sách gọi là Chử Đồng Tử (BT).
[xciii] Vây bọc bốn bên (BT).
[xciv] Người theo đạo tu tiên (BT).
[xcv] Ruộng để thờ (BT).
[xcvi] Tục truyền đồ lễ: Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao và một chĩnh vàng cốm.
[xcvii] Hốt là tấm thẻ các quan cầm theo lúc đi chầu vua (BT).
[xcviii] Gỗ ngổn ngang là hình chữ mộc 木. Chữ mão 卯 chữ khẩu 口 gia thêm chữ mộc, là chữ Liễu 柳 Hạnh 杏.
[xcix] Thủy 水 mã 馬 là chữ Phùng 馮, dĩ 已 tẩu 走 là chữ khởi 起, ý là bảo họ Phùng khởi công.
[c] Động (BT).
[ci] Nghĩa là đền Quỳnh hư, gác Giao quang.
[cii] Hoàng lương là kê vàng. Xưa có người nằm mộng làm quan phú quí hơn 20 năm trời, lúc tỉnh dậy, nhà trọ vẫn chưa thổi chín nồi kê.
[ciii] Gạt gẫm (BT).
[civ] Tục truyền hai ông sang Tây Trúc học đạo, một hôm ông Đạo Hạnh đội lốt hổ để lòe ông Minh Không. Ông Minh Không biết ý, nói rằng: “Cầu được ước thấy có khó gì”. Cho nên kiếp sau phải bệnh hóa hổ.
[cv] Đạo Phật cho người chết là chuyển hóa sang một trạng thái khác (BT).
[cvi] Sử cho là Đạo Hạnh để thuốc lại giao cho Minh Không.
[cvii] Tục truyền vua tắm xong thì bao nhiêu lông lốt hổ tuốt cả ra vì thế mới khỏi bệnh.
[cviii] Bùa trói (BT).
[cix] Dối gạt (BT).
[cx] Đền thờ thần (BT).
[cxi] Cách khiêm xưng ngôi thứ nhất (BT).
[cxii] Ý nói lên tỉnh nhận nhiệm sở (BT).
[cxiii] Cha (BT).
[cxiv] Cõi âm, nơi người chết ở (BT).
[cxv] Đăng khoa lục cho là người Bình Lao, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tang thương lục cho là người Bắc Giang, chưa biết đích lời nào là phải.
[cxvi] Hai câu dùng chữ sẵn mà chọi nhau từng chữ, cho nên tài.
[cxvii] Nghĩa là soi gương vẽ lông mày, một nét hóa ra hai nét. Điểm là nét vẽ, lại là tên bà ấy, có ý một nàng Điểm hóa ra hai nàng Điểm nữa.
[cxviii] Nghĩa là cạnh sông xem bóng trăng, một vừng giống như hai vừng. Luân là vừng trăng, vừa là tên anh. Có ý một ông Luân thành ra hai ông Luân nữa.
[cxix] Thiếu nữ một nghĩa là gió, một nghĩa là con gái nhỏ. Tân lang một nghĩa là cau, một nghĩa là rể mới. Câu này nghĩa là: Trước sân gió động cây cau và có thêm ý con gái nhỏ mời rể mới ăn trầu, cho nên khó đối.
[cxx] Bàn bạc chuyện xưa nay, có người lòng ruột.
[cxxi] Chung quanh bên tả hữu, có bầy tôi chân tay.
Hai câu chững chạc, mà rõ là tình cảnh đi một mình.
[cxxii] Nghĩa là: Một tấc đất An Nam, chẳng biết mấy người cày đại trượng phu Bắc quốc, đều do đường này ra (BT).
[cxxiii] Nguyễn Thị Điểm tức Đoàn Thị Điểm, tương truyền là người đã diễn “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn ra chữ nôm (BT).