Chương 6: Tử hải huyễn nhật.

Đạo nhân phái Bàn Sơn là hậu thế của thánh nhân thời trước, tổ tiên ở vùng núi Trát Cách Lạp Mã, mấy đời thờ cúng Minh Nguyệt châu, có niên đại còn xưa hơn ba mươi sáu quốc gia ở Tây Vực rất nhiều. Ước chừng khoảng hai ngàn năm trước thì dời vào Trung Nguyên, trong thời gian này, Minh Nguyệt châu cũng bị trộm mất. Mấy quyển kinh đã qua tay nhiều người, theo thương nhân truyền vào Tây Hạ. Theo truyền thuyết, viên châu này có thể đọ sáng cùng trăng, cho nên gọi là Minh Nguyệt châu, nó thực ra là một viên đá quý hiếm thấy, giống với Ma Ni bảo thạch được nhắc tới trong kinh Phật, ẩn chứa năng lượng cực lớn. Quân trộm mộ khắp nơi nghe tiếng chắc chắn sẽ rắp tâm động thủ, mục đích đương nhiên là nhằm vào Minh Nguyệt châu trong địa cung nhà Tây Hạ.

Nếu như không có ai tìm được cổ mộ, Shirley Dương cũng sẽ không có suy nghĩ này, nhưng Răng Vàng đã loan truyền ảnh ra ngoài, thánh vật được thờ cúng trong đại cung của tổ tiên phái Bàn Sơn nói không chừng sẽ rơi vào tay bọn trộm mộ, cho nên chuyến này chúng tôi bắt buộc phải đi.

Tàn cuộc rượu đã gần sáng, chúng tôi hẹn Shirley Dương rồi đi cùng xe về phía Tây. Ban đầu dừng chân ở Tịnh Biên (Thiểm Tây, TQ), tiếp giáp với vùng đồi núi đất vàng Sa Hà Mão tử (thuộc tỉnh Hà Bắc, TQ), vừa ăn mỳ thịt dê Đoá Kiều* vừa bàn bạc lộ trình.

  • Mỳ Đoá Kiều: Món mỳ đặc trưng của người Thiểm .

Shirley Dương đã chụp hình lại toàn bộ cuốn sách vàng Tây Hạ, kẹp ở trong chiếc laptop chống nước, cô mở laptop, cầm bốn tấm hình ra.

Tôi nói: "Nói sách vàng của Tây Hạ là bản đồ vậy nó có chỉ dẫn vị trí chính xác không?"

Răng Vàng nói: "Thứ cho tôi ngu muội, thật sự tôi không thể nhìn ra được đây là cái bản đồ?"

Shirley Dương lấy tấm hình đầu tiên ra, hình vẽ trên nóc hộp sắt là một thần quái, tướng mạo dữ tợn, mặt người móng hổ, chín đầu chín đuôi, mắt như chuông đồng, chân trước chạm đất, chín đuôi vút lên trời, tạo ra hình dạng đang phi đuổi. Tấm hình thứ hai là hình vẽ ở đáy hộp, vẽ một người lân có chín tay, lặn ngụp uốn lượn, phối hợp ăn ý với Lục Ngô trên nóc hộp, tuy là mặt người nhưng mang một đôi mắt rắn, tham lam lại hung tàn.

Theo Răng Vàng nói, hai quái vật này là Lục Ngô và Bành Hoạ, bảo vệ kho báu và những bí mật người ngoài không được phép tiếp cận, có điều cuốn sách không có bất cứ chỉ dẫn nào, nhìn kiểu gì cũng không giống bản đồ.

Shirley Dương nói: "Ý tứ trong hai tấm hình này rất đơn giản - trong cổ mộ Tây Hạ có thần quái trấn thủ kho báu."

Răng Vàng nói: "Trên đời quả thực có loại đồ chơi này thật sao?"

Tuyền Béo nói: "Chưa tới nơi mà anh đã run vậy sao? Bây giờ hối hận vẫn còn kịp đó, chờ đến lúc đó sợ rằng lại nhũn cả chân, nằm thẳng cẳng ra đất giả chết, tôi lại phải cõng anh? Tôi nói trước, anh đừng có mơ!"

Răng Vàng nói: "Ha ha, anh Béo đây khẩu xà tâm phật, nói thì vậy nhưng lúc nguy nan lại ra tay trượng nghĩa hơn người!"

Shirley Dương: "Trên đời này chưa hẳn là có mấy thứ thần quái Lục Ngô, Bành Hoạ đâu, đây giống như một lời chú, hoặc một loại bùa chấn thôi, hàm ý là bất kỳ ai tới gần bảo tàng sẽ phải chết!"

Tôi nói: "Nguy hiểm ở đâu chẳng có, đáng chết thì muốn sống cũng không được, nên sống thì muốn chết cũng đâu có dễ, trước khi đến nơi đừng nghĩ quá nhiều, rồi lại tự mình hù doạ mình."

Shirley Dương gật đầu một cái, lại chỉ tấm hình thứ ba, trong hình tổng cộng có chín con rồng, rắn, hình dáng khác nhau, rồng có móng, rắn thì không, chính giữa có hoa văn hình vòng tròn, "Thần, chim, hươu" quấn thành vòng tròn, đầu đuôi giáp nhau. Shirley Dương nói người Tây Hạ tín Phật giáo, "thần, chim, hươu" quấn tròn tượng trưng cho luân hồi sinh tử, hàm ý chỉ kiếp trước kiếp sau, đồng thời cũng là chỉ mộ huyệt. Chín con rồng, rắn trong hình ám chỉ chín con sông chảy quanh địa cung, địa cung được đào trong lòng núi, gần với vực sâu, chín con sông chảy dồn vào đó.

Chín con sông nửa ngầm nửa lộ, rồng chỉ sông trên mặt đất, rắn chỉ sông ngầm. Trong phong thuỷ, trận thế này gọi là "cửu long chiếu nguyệt". Ngọn núi chúng tôi muốn tìm vừa vặn nằm ở cuối chín con sông đó, chỉ cần tìm được một, dùng thuật tầm long thì xác định vị trí không khó.

Tôi nghĩ thầm: "Em nghĩ đơn giản quá rồi, sông bị cát chảy ăn mòn, biến mất đã mấy trăm năm. Gió thổi cát dời, địa thế vô định. Huống chi hai cái tên kia, thiên tài chẳng phải, nhân tài cũng không, vừa vặn hai chữ "bất tài" *, bà cô nhỏ của tôi ơi, tôi đi đâu tìm cho em đây?"

  • Nguyên bản tác giả chơi chữ: "bất tại nhị ngũ nhãn chi thượng, dã bất tại nhị ngũ nhãn chi hạ, chính tại nhị ngũ nhãn thượng: Không hơn nhị ngũ nhãn, không dưới nhị ngũ nhãn, vừa vặn là nhị ngũ nhãn. (nhị ngũ nhãn: chỉ kẻ kém năng lực).

Chưa đợi tôi hỏi, Shirly Dương đã nói kế hoạch của cô, Tĩnh Biên đất rộng biên dài, phía bắc giáp đại mạc, nằm ở Thiểm Tây, tiếp giáp với Mông Cổ, là cứ điểm của Thiểm Tây, thời cổ đại là vùng đất binh đao triền miên mà nay vắng lặng. Thành trì quá nửa đã bị bao phủ bởi cát chảy, hiếm thấy được một gò đất.

Ở đây có hai câu - gió đen trước cửa, nhà đốt đèn; mười bước bên trong không thấy rõ - miêu tả gió cát nổi lên, trời đất tối mịt, ban ngày ngồi trong nhà, không đốt đèn thì không thấy người.

Trước giải phóng, nơi đây nói nghèo bao nhiêu có bấy nhiêu, cháo cám loãng ba ngày chẳng được hai bát, người nào lánh đi được cũng lánh cả rồi, người không lánh được đều chết đói, đi bao ngày cũng không gặp một bóng người sống. Dân địa phương có câu tục ngữ: "Mênh mang sa mạc, Hách Liên Thành thấp thoáng". Hách Liên Thành cũng là một toà thành cổ của Tây Hạ, sau khi bị Mông Cổ chinh phạt vạn mã san bằng. Vì quá nhiều người bị giết, xác ném xuống sông tới nghẽn dòng, tới lúc nước sông khô cạn rồi, bạch cốt vẫn cao như núi. Mắt vừa đưa đã thấy xương trắng chồng chất, nhìn mãi không thấy bờ, vì vậy con sông này được gọi là "Bạch Cốt hà". Mặc dù trước đây qua nhiều triều đại như vậy, nhưng sau này gặp gió cát vẫn còn nhìn thấy xương trắng trong cát chảy. Bạch Cốt hà là một trong chín con sông, mấy thập niên qua, nạn gió cát càng lúc càng mạnh nên không còn gặp những bộ xương trắng nữa, có điều thợ săn dê vàng ở trấn Tĩnh Biên cùng dân du mục năm đó phần lớn đã nhìn thấy Bạch Cốt hà, theo miêu tả của họ, ít nhất cũng có thể đoán định phương hướng. Từ trấn Tĩnh Biên mà đi, vượt qua trường thành, tiến vào biên giới phía đông nam sa mạc Mao Ô Tố, sau khi tới dốc Đại Sa lại theo hướng Tây Bắc mà đi.

Tôi thầm bội phục Shirley Dương, đúng là theo nước cờ này có thể đi, có điều có một việc từ đầu tới cuối tôi luôn cảm thấy kỳ lạ, như đã nói, Răng Vàng phát tán hình chụp chiếc hộp sắt ra ngoài, dân đạo mộ chắc chắn cũng có được vài ba tấm, những kẻ đó cũng không phải thổ phỉ, không chỉ biết súng đạn thuốc nổ, còn có trang bị kỹ thuật cao cấp, trong tay có ảnh, chúng tìm chín con sông kia dễ dàng hơn bọn tôi nhiều, sao còn có người bất kể giá cả tình nguyện muốn mua sách vàng Tây Hạ này làm gì?

2.

Răng Vàng nói: "Lúc ấy không có đủ phim chụp, chỉ chụp ba tấm, chẳng lẽ trong tấm hình mặt thứ tư còn có bí mật gì?"

Shirley Dương cầm tấm hình cuối cùng lên, chính giữa là một quan tài hình người, ở giữa thẳng đứng, hai bên trái phải là hình quỷ giống như người mà không có mặt, chỉ có hai con mắt, bên dưới đúc hình sóng gợn tầng tầng.

Mỗi người nói ý kiến của mình, đoán bừa có, phân tích lý lẽ cũng có, đều chưa ra được vấn đề mấu chốt. Cuối cùng đều thống nhất, hình vẽ sau cùng trong cuốn sách vàng Tây Hạ chắc chắn vô cùng quan trọng! Tôi quẹt diêm huỷ hình, lại bỏ sách vàng Tây Hạ vào ba lô của Shirley Dương. Shirley Dương cùng Răng Vàng đi tìm lạc đà để vào sa mạc, tôi cùng Tuyền Béo ở lại coi chừng ba lô, đè phòng có kẻ trộm đồ. Tôi thấy thời gian còn sớm, tựa vào ghế dài chợp mắt một chút, nằm mơ thấy hai quái vật Lục Ngô cùng Bành Hoạ chui ra, biến hoá khôn lường, bọn tôi liều mạng chạy trốn, sơn động đột nhiên đảo ngược, Shirley Dương rơi xuống vực sâu, trong lòng tôi nôn nóng vạn phần nhưng muốn cử động cũng không được, trong nháy mắt cảm thấy nỗi tuyệt vọng chưa từng có, trong cơn tuyệt vọng kinh sợ, vùng vẫy mà tỉnh lại, toàn thân toát mồ hôi lạnh. Ngẩng đầu nhìn lên, Tuyền Béo đang nằm bò trên ba lô ngủ không biết trời đất. Tôi biết rõ là mộng nhưng vẫn không cầm được nỗi lo sợ mơ hồ cảm thấy điềm báo không tốt, trong lòng quyết định: "Chuyến này lành ít dữ nhiều, có điều phóng lao thì phải theo lao, nếu Shirley Dương gặp nguy hiểm, tôi thà tan xương nát thịt cũng phải bảo đảm cô ấy bình an vô sự!"

Trong lúc tôi còn đang mất hồn, Shirley Dương đi tìm lạc đà đã trở về. Đi vào sa mạc mênh mông, không thể chỉ dựa vào hai chân, lặn lội gian nan trong sa mạc, không một ngọn cỏ, lại dễ mất phương hướng, gọi là biển chết cũng chẳng sai. Trong vô vàn loại gia súc, chỉ có lạc đà là phù hợp để vượt sa mạc dài dằng dặc, trên thân lạc đà có bướu, có thể nhịn khát, lặn lội trong đại mạc độ mười ngày không ăn không uống cũng không sao, lạc đà móng dẹt, dưới móng lại có lớp đệm thịt dày, không dễ sa vào cát chảy, vững vàng như núi, chạy nhanh như gió, hơn nữa lại tương đối thuần phục, khả năng nhớ đường tốt, thêm vào đó tứ chi cao lớn, một con lạc đà có thể mang nặng chừng một trăm tám mươi kí lô, hành tẩu trong gió cát cuồn cuộn như biển chết không có loại gia súc nào tốt hơn lạc đà.

Nếu có thể tìm được một đội lạc đà, lại có người dẫn đường dày dặn kinh nghiệm, sự nguy hiểm khi vượt qua biển cát mới có thể giảm thiểu xuống mức thấp nhất. Có điều ở vùng Mão Tử đồi núi đất vàng này một con lạc đà cũng không có, mấy chục năm qua, ven rìa sa mạc đã có đường quốc lộ, đội lạc đà đi xuyên sa mạc đã không còn nữa.

Trong tình trạng không có lạc đà, lựa chọn thứ hai là xe SUV sa mạc, nhưng ở nơi khỉ ho cò gáy này, xe cũng tìm không nổi. Bọn tôi lại ra ngoài lần nữa, nhờ chỉ điểm của một lái buôn dê mới tìm được một chiếc xe Jeep nhà binh bốn bánh do bộ đội đào thải, bán cho địa phương, có thể miễn cưỡng dùng tạm. Bốn người trang bị đơn giản, chỉ mang theo kính gió, khăn quàng, dù kim cương, móng lừa đen, vuốt phi hổ, đèn pin mắt sói, lương khô nén, đèn led giao thông dùi cui cầm tay. Dù kim cương và móng phi hổ chúng tôi để cho Shirley Dương dùng, tôi cùng Tuyền Béo mỗi người mang một cây xẻng công binh, mấy thứ áo da chuột, áo chống nước lửa, nhiên liệu cùng nước được trang bị đầy đủ trên xe, lại nhét thêm mấy bọc thịt sấy lớn.

Người hướng đạo rất khó tìm, trước kia ở trấn Tĩnh Biên không ít người săn hoàng dương, sau đó vì nguồn nước cạn kiệt, hoàng dương cũng tuyệt chủng, phần lớn chỉ có người qua lại ở ven rìa sa mạc, rất ít người từng đi sâu vào bên trong. Tôi kéo lái buôn dê tới một góc, nhét cho hắn hai gói thuốc lá, hỏi hắn: "Người ở trấn Tĩnh Biên trước kia làm sao săn được hoàng dương? Theo tôi biết, súng bắn chim thông thường trong dân gian có tầm bắn quá gần, hoàng dương lại nhanh, súng bắn chim hoặc súng lục không bắn được." Lái buôn nói trấn Tĩnh Biên là nơi sinh ra đao tặc, mã tặc, đao tặc dùng đao, quen độc lai độc vãng, mã tặc dùng súng, hầu hết kéo theo bè lũ. Mấy năm trước, mỗi ngày tới một lượt, sau đợt loạn quân thổ phỉ, súng đạn còn lại khá nhiều, đội lạc đà cũng đeo súng. Đều dùng súng trường bỏ lại của mã tặc để săn hoàng dương, súng liên thanh hay phát một loại nào cũng có, có điểu ngày nay muốn tìm cũng không tìm được nữa.

Tôi không cam tâm, lại hỏi lái buôn, không có súng trường thì súng ngắn hoặc súng lục cũng được.

Tuyền Béo sáp lại bảo: "Đồ chơi lỗi thời chẳng có uy lực tôi cũng không thèm dùng."

Tôi chẳng thèm để ý cậu ta nói mát: "Hoả tiễn xuyên lục địa có uy lực lớn đấy, anh vác theo nổi không?"

Thăm dò khắp nơi, bản địa không có súng, súng bắn chim cũng không có một cây, người dẫn đường cũng không tìm được. Tôi xem xét lại phương vị một chút, quyết định không qua đêm ở Mão Tử, sửa sang lại qua loa, tham chiếu bản đồ và la bàn, lái xe vào sa mạc Mao Ô Tố.

Đường đi ban đầu còn khá tốt, men dài theo bờ sa mạc có rất nhiều cây bụi, thậm chí còn gặp được oa tử chăn dê, nhưng vào sâu trong sa mạc, tới chỗ không có dấu chân người, không khí không một gợn gió, mặt trời bốc lửa trên đầu, cát chạm vào da khoan thủng thành lỗ, đên khi trời tối lại lo chết rét, mấy hồ nước gặp trên đường đều là khổ thủy (nước có chứa axit độc), không uống được, dù cho miệng khô môi rách cũng không không dám uống một hớp, khó mà chống lại cái nóng bỏng đến hoa mắt của sa mạc, gặp bão cát cũng không chịu nổi, không biết ăn bao nhiêu cát, xe Jeep rống lên lắc lư muốn hỏng, lặn ngụp một hồi, lên lên xuống xuống khổ sở lết tới được sườn Đại Sa rồi phun khói đen, nằm thành một đống dưới gò cát.

Shirley Dương kiểm tra một lượt, bất lực nhún vai, tiếp theo chỉ còn cách đi bộ.

Răng Vàng luống cuống: "Vào sa mạc biết bao nhiêu ngày, không có xe Jeep, dễ là một đi không trở lại..."

Tuyền Béo nói: "Đầu anh sao giống cái xe Jeep kia thế, cũng hỏng rồi hả? Đi được quá nửa rồi còn muốn quay về sao?"

Răng Vàng chìa ra miệng môi khô rách, giọng như phun khói bốc lửa: "Tôi sống không nổi, sắp bị phơi thành Lâu Lan cô nương* rồi!"

*Lâu Lan cô nương: Lâu Lan là một thành bang ở thời cổ đại, thuộc vùng Tân Cương, nằm trên con đường tơ lụa và lãnh thổ phần lớn bao quanh bởi sa mạc, nhờ vào mậu dịch tơ lụa mà nó trở thành một trong những đô thị lớn phồn hoa nhất, mở cửa sớm nhất thế giới, tuy nhiên thành bang này lại biến mất một cách thần bí trong sa mạc. Sự biến mất này dẫn đến nhiều truyền thuyết, một trong số đó, cổ quốc trong nháy mắt biến mất chỉ lưu lại hai món bảo bối: Mỹ nữ Lâu Lan và Ngọc sa mạc Lâu Lan. Mỹ nữ sớm hoá thân thành Ngọc sa mạc Lâu Lan, các nàng ẩn thân trong biển cát đợi người cùng kết duyên. (wiki + baidu)

Tuyền Béo nói: "Ai bảo anh ngồi một đống không chịu vận động, lo mà cái mông chả bị hun chín ."

Răng Vàng nói: "Nghỉ một lát đi, phía trước chẳng phải cũng nóng như vậy còn gì?"

Tôi nói: "Từ đây tới chỗ sa mạc tiếp giáp với núi, lái xe cũng phải mất một ngày. Ở trấn Tĩnh Biên tôi có nghe qua, hướng Tây Nam dốc Đại Sa có nhánh khảm câu. Trước kia, năm 1949, khảm câu là chỗ đội lạc đà lấy nước, nay thuỷ mạch đã khô nhưng khoảng cách không xa, có thể đi bộ được, chúng ta đi về bên kia trước đi!"

Răng Vàng nói: "Khảm câu đã khô thành gáo rồi, tới đó khác gì mua đường?"

Tôi nói: "Đằng nào cũng là kênh mương, tới núp một lúc nghỉ chân, chờ mặt trời lặn về phía Tây rồi lại đi."

Răng Vàng chợt nói: "Thì ra ý Hồ gia là như vậy! Không phải người kỳ tư diệu tưởng thì không thể nghĩ ra. Thật có tư thế trong cảnh "trước chẳng gặp cổ nhân, sau không thấy người tới"!

Lồng ngực tôi bỗng trào ra hai chữ cảm thán: Mẹ kiếp!"

Tuyền Béo nói: "Răng Vàng, nghe người ta đồn lưỡi anh có thể cưa đứt cả sắt, thật cmn dùng tốt!"

Răng Vàng nói: "Đầu lưỡi dùng tốt cũng không thay được chân nhé, ruốt cuộc vẫn phải từng bước mà lê đi!"

Theo dân gian, khảm câu hay còn gọi là mương đất thật ra là một vùng mộ quần táng của quý tộc Tây Hạ, Tây Hạ bị ảnh hưởng bởi văn hóa Đường Tống, hết lòng tin vào Phật giáo, mồ mả cũng phải hợp phong thuỷ, nhiều năm trước đây, nơi này là mũi nước, tiếng địa phương gọi mũi nước bởi sông ngầm từ nguồn xa, trên đường chảy ra sa mạc hình thành một hồ nước, tựa lưng vào núi đất cát kiên cố. Trước theo dòng, sau có điểm tựa, quý tộc Tây Hạ cho rằng đây là khối bảo địa, mộ lớn mộ nhỏ tập trung ở đây số lượng cực lớn, mộ thất bằng gạch, tường vẽ bích họa. Năm đó còn có mũi nước, đoàn lạc đà vượt sa mạc thường sẽ lấy nước ở đó, sau đó nguồn nước khô kiệt, lại xuất hiện cường đạo, quân phiệt, tàn binh bại tướng của Quốc dân đảng, thậm chí còn cả bạch Nga (chỉ cướp người Nga) nhiều lần sang cướp bóc, vật đáng tiền đều bị vét sạch, nhưng địa thế vẫn còn, không bị cát chảy vùi lấp hoàn toàn, trước kia Mao Ô Tố còn có bầy hoàng dương, dân săn dê thường tới hầm mộ tránh gió cát.

Bốn người mang theo ba lô, bỏ xe đi bộ, cát mịn xốp, lún xuống từng bước, dốc hết sức tiến về phía trước, dưới ánh mặt trời gay gắt, đối chiếu phương hướng bản đồ và la bàn, xuống sườn Đại Sa, vượt qua mấy gò cát, phía trước xuất hiện một nhánh khảm câu.

Chúng tôi đi bộ tới mương đất cát, bới mấy cái hố, tìm nơi ít mồ mả mà đào, liền cảm thấy rùng mình, trong cổ mộ mặc dù âm u nhưng so với việc phải phơi mình dưới ánh nắng chói chang dữ dội còn tốt hơn nhiều. Tôi thở hổn hển giũ cát trên người, bật đèn pin nhìn bốn phía. Mộ của quý tộc Tây Hạ có kích thước tương đối nhỏ, mộ đất đa số xếp thành hình tháp, lấy gạch đất xây thành hai hoặc ba phòng, cửa mộ chạm khắc tranh thuỷ hoả, gạch nền khắc chìm hoa văn, bốn vách mỗi viên gạch một bức chạm trổ.

Mộ Tây Hạ so với mộ ở Trung Nguyên khác biệt rõ ràng, trên nóc mộ Tây Hạ có một lỗ nhỏ, từ trên xuống dưới treo một ngọn trường minh đăng, trước mộ đốt trường minh đăng, gạch mộ phong kín bảy tầng, trường minh đăng đốt hết khí trong mộ, tạo thành môi trường chân không bảo quản cực tốt bích hoạ trong mộ.

Trước cửa mộ có treo bức điêu khắc, khắc hình võ tướng, muông thú, phía trên vẽ hoa văn cửa khuyết, mây, sao, các loại tiên linh dị thú, khí thế sâm nghiêm. Mộ gạch lấy bốn loại bích hoạ làm chủ, một là hình chủ mộ khi còn sống cưỡi tuấn mã đi săn, hai là mô tả tình cảnh lúc chủ mộ theo đem quân đi chinh chiến, ba là mô tả cảnh phu thê chủ mộ ẩm yến thưởng lạc xa xỉ, bốn là chúng nô tì bận rộn giết mổ, lũ tạp dịch nấu nướng.

Giữa mộ, ngoài bích hoạ khiến người ta hoa cả mắt ra, chỉ có bốn tượng đá nâng hòm, bục đỡ quan tài hay còn gọi là quan sở, đều là hình nô lệ lực sĩ trần truồng, uốn gối quỳ xuống đất, hai mắt trợn tròn, trong miệng có răng nanh, bụng lớn lưng tròn, hai cánh tay vai u thịt bắp, đầu vai ngang nhau, dáng vẻ cúi đầu nặng nhọc. Từ bức hoạ trên mộ gạch có thể nhận ra, đây hẳn là ngôi mộ phu thê hợp táng, mộ chủ là một vị tướng quân.

Nghe nói trong mấy ngôi mộ ở đó cũng có Phục ma Thiên tôn, trước kia thường có đội săn hoàng dương vào mộ tránh cát, đoàn lạc đà tới lấy nước cũng từng qua, dân du mục nhiều tuổi ở đây nói bích hoạ trong mộ có thể nói là sống động như thật. Hai đất Tấn, Dự cũng có mấy ngôi Phục ma điện, cung phụng Phục ma Đại đế, dùng thanh long, bạch hổ, huyền vũ, chu tước làm hộ pháp, đó là theo truyền thống đạo gia. Phục ma Thiên tôn trong bích hoạ của Tây Hạ lại là nhánh của Phật giáp, hậu thế đã thất truyền, không có mấy ai được thấy. Tôi muốn tìm bức bích hoạ tương ứng để xem kết quả, vì vậy ăn chút lương khô, nghỉ ngơi một hồi trong mộ rồi đốt đuốc lên tiến vào bên trong.

Khu mộ quần táng của quý tộc Tây Hạ ở khảm câu, năm 1949 từng bị kẻ gian trộm mộ đào bới, không dưới 1400 mộ, đều là mộ gạch có bích hoạ. Bích hoạ trong mộ không được vẽ ở bốn vách mà chủ yếu ở trên đỉnh, hoàn toàn khác biệt với kiến trúc mộ táng thường thấy ở Tây Vực. Theo quan niệm của quý tộc Tây Hạ, mộ chủ là người thờ cúng bích hoạ Phật giáo, bích hoạ trong mộ càng tinh mỹ tức là sau khi chết có công đức càng lớn. Trên đỉnh vách ngôi mộ chính được quét thạch cao, trên đỉnh vẽ một bức bích họa vô cùng lớn, thậm chí dùng cả phấn vàng để vẽ.

Chúng tôi cầm cây đuốc chiếu sáng, vừa đi vừa nhìn về phía trước.

Trên đỉnh mộ có ít bích hoạ, qua mô tả trong bích hoạ ở đây có thể biết được trước khi Tây Hạ diệt quốc, mũi nước sông ngầm tuôn ra sa mạc cũng không chỉ có khu khảm câu, còn có mấy căn hầm thờ phật, miếu, rải rác dọc theo tuyến sông ngầm, sông ngầm nối thẳng vào địa cung. Đáng tiếc đã bị cường đạo phá hoại nghiêm trọng, phấn vàng đều bị róc đi, phần lớn bích họa trên mộ gạch không hoàn toàn lành lặn, toàn bộ đều đã bị phong hoá mà tróc ra, sắc thái ảm đạm, đoán chừng chưa đến hai ba chục năm nữa, bích hoạ muôn phần tinh mỹ của Tây Hạ đều sẽ hoàn toàn biến mất. Hơn nữa, một thât gian nối liền gian, bích hoạ trong khu mộ quá nhiều, nếu xem lần lượt, dăm ba ngày cũng chưa thể xem hết.

4

Trải qua hơn trăm năm bị trộm cướp đào quật, 1400 ngôi mộ quý tộc nhà Tây Hạ gần như đều đã bị móc sạch, bởi mộ quần táng san sát, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, trộm mộ đem đào thông các ngôi mộ, đạo động thông đạt tứ phương tám hướng. Trong một số ngôi mộ còn có hài cốt, có bộ của mộ chủ, có bộ của trộm mộ. Có khi trộm mộ thấy của nổi lòng tham, tàn sát lẫn nhau, nhièu lúc cũng do có tật giật mình, tự dọa chết mình.

Ở góc mộ kia, có xác hai tên trộm mộ, chết đã mấy chục năm, bên cạnh có một thây khô khoác hồng bào, mang bội kiếm cùng nỏ thần tý (nỏ cầm tay). Có lẽ hai tên trộm này dùng giây kéo thây khô từ trong quan ra, lúc trộm minh khí gặp phải kẻ khác giở trò.

Tuyền béo nhặt thanh trường kiếm kia, dùng đuốc chiếu qua một cái, thân kiếm dài đã gỉ nhưng độ sắc bén không giảm. Răng Vàng nói: "Đao kiếm chôn theo trong mộ nhà Tây Hạ gọi là nhân kiếm, còn nỏ thần tý, theo sử sách nói xạ tam bách bộ (bắn ba trăm bước), có thể xuyên lớp áo giáp dày rèn từ sắt lạnh, bóng loáng như ngọc tên không xuyên thủng."

Tôi nói: "Trước kia trộm mộ không thèm để ý những thứ này, tới bây giờ cũng đáng chút tiền, nhưng mang không nổi, chỉ vác bình nước lương khô thôi cũng làm tôi mệt muốn gục rồi."

Tuyền Béo thấy trên người hai tên trộm mộ kia vác một túm vải bọc, cho rằng bên trong có minh khí, vạch ra nhìn thử, hoá ra là hai khẩu M1891 của Nga - Súng trường Mosin, dân gian gọi là thuỷ liên châu, hình dáng gần giống súng tiểu liên. Nếu là trước kia, một khẩu súng tiểu liên có thể đổi được bốn con lạc đà, rất đáng giá. Dân trôm mộ đi sa mạc, sợ nòng súng bị cát bay vào thường dùng vải bọc lại, có điều súng lâu ngày không được tra dầu, một khẩu đã nghẽn chốt, không kéo lên được. Cây súng còn lại vẫn dùng được, ngặt nỗi chỉ có năm viên đạn. Tuyền Béo đeo súng trường lên người, lại bới đống thây người chết hồi lâu, lôi ra một khẩu súng lục. Đó là khẩu súng lục chế lại, tục gọi "bắn phát một", do thợ súng dân gian làm ra, uy lực như nhau, nhưng chỉ có thể bắn một phát nhồi một phát, tốc độ bắn không nhanh lại dễ tắc lửa, đây là vũ khí mà trước kia thổ phỉ ở đại mạc Mông Cổ và cao nguyên Hoàng Thổ hay sử sụng. Tôi kiểm tra nòng súng cùng khoá nòng, tất cả đều han gỉ, căn bản không thể dùng được, vậy mà nỏ thần tí bên cạnh thây khô, quả không hổ danh xưng thần tí nỏ, trải qua mấy trăm năm vẫn hoàn hảo.

Tôi để Shirley Dương mang nỏ thần tí phòng ngừa vạn nhất.

Shirley Dương nói: "Nước và lương thực chúng ta mang theo có hạn, không thể trì hoãn quá lâu ở đây, nếu như trong vòng hai ba ngày vẫn không tìm được nguồn nước thì nhất định phải đi về phía Nam."

Tôi nói: "Dọc đường chúng ta đã chậm mất mấy ngày, em không sợ bọn trộm mộ khác đi một bước, tìm được địa cung sao?"

Shirley Dương nói: "Thánh vật tổ truyền của đạo nhân phái Bàn Sơn tất nhiên quan trọng, nhưng không đáng giá bằng tính mạng của bất kỳ ai."

Tôi đồng ý với lời của Shirley Dương, hơn 1400 toà mộ bích hoạ, thật sự xem không hết, mọi người nghỉ ngơi một hồi, chui ra khỏi đám mộ gạch, từ mương đất theo hướng Tây mà đi, mây mờ trăng tối, không làm sao đi tiếp được, chúng tôi đành ở tại chỗ, đào cát thành rãnh mà qua đêm.

Sáng sớm hôm sau tiếp tục đi. Ròng rã hai ngày, đưa mắt nhìn bốn phía vẫn là gò cát nhấp nhô trùng trùng điệp điệp vô tận, cát vàng mênh mông, vắng vẻ hùng vĩ nhưng trước sau đều không tìm thấy nước, tôi nghĩ, đến chúng tôi còn tìm không được, kẻ khác chắc gì đã thần thánh hơn? Mọi người xem chừng gặp tình cảnh này đều đã chết lòng, định bụng hướng về phía Nam, ra khỏi sa mạc.

Lặn lội hai ngày liên tiếp trong sa mạc, tôi cùng Tuyền Béo, Shirley Dương, ba người còn có thể miễn cưỡng chịu đựng được, Răng Vàng quả thật chịu không nổi, đặt mông xuống gò cát rồi thì lôi thế nào cũng không đứng dậy nổi, gã bị nắng hong cho tới mất hồn, lảm nhảm mê sảng rồi, quả quyết nói trên trời có tới ba ông mặt trời!

Hai mắt Răng Vàng đăm đăm, tuyệt vọng nói: "Tuyền béo, chúng ta xong rồi!"

Tuyền béo nói:"Muốn xong thì tự anh xong đi, tôi nhìn mặt trời mới có tám chín giờ sáng sớm thôi."

Răng Vàng nói: "Ông trời có phải cảm thấy Răng Vàng tôi chết không đủ nhanh, để cho ba cái mặt trời tới phơi tôi?"

Tuyền Béo nói: "Anh nói bậy cái gì, trên trời có ba cái mặt trời á?", Anh ta ngẩng đầu lên nhìn, đoạn cúi đầu xuống nói: "Tôi cũng phải uống miếng nước thôi, vừa khô vừa khát, nổ đom đóm mắt, nhìn vật thấy bóng chồng bóng rồi!"

Shirley Dương nói với tôi: "Nếu không quay lại, tình hình sẽ rất nguy hiểm, cần sớm trở lại Đại Sa Phản, tới chỗ xe Jeep lấy thêm nước, đi về hướng quốc lộ phía tây nam sa mạc."

Trong bụng tôi cũng nói nên rút lui, nhưng ngẩng đầu tìm phương vị, tôi giật mình, trên trời xuất hiện một đám mây mỏng nửa trong suốt, ở giữa có ba vầng mặt trời, cùng lúc phát ra vầng sáng loá mắt, trong truyền thuyết thượng cố, cửu nhật tịnh xuất (chín mặt trời cùng ló ra), tất cả cây cỏ héo khô, nhưng trước mắt không thể là thật, ai mà không biết "thiên vô nhị nhật" (ngày không thể có hai mặt trời).

Shirley Dương nói: "Đó là huyễn nhật, do khúc xạ ánh sáng từ nước, trên trời sẽ đồng thời xuất hiện ba vầng mặt trời."

Tôi nói: "Huyễn nhật anh chưa thấy qua, nhưng "nhật vựng nhi phong" (mặt trời có quầng thì gió nổi), chỉ sợ sẽ có trận gió cát lớn, phải tìm chỗ nấp đi!"

Tuyền Béo ngó tứ phía: "Phóng mắt nhìn ra toàn là sa mạc, đâu có chỗ nào tránh được gió cát?"

Tôi nói: "Ở gần không có, trốn vào khảm câu mới qua được, nhân lúc gió cát chưa tới, mau đi!"

Huyễn nhật không quá mười phút, quầng mặt trời dần bị thu lại, mặt trời biến thành quả trứng gà vàng sáng loáng, chính là điềm báo bão cát lớn sắp đến. Sa mạc Mao Ô Tố không giống mấy sa mạc lớn khác, ngàn năm trước còn có cỏ cây tươi tốt, sau đó bị cát chảy ăn mòn, bao nhiêu gió cát kéo tới lấp thành một mảng, sa mạc ngày càng lớn, đến nay tổng diện tích đã quá bốn chục ngàn cây số vuông, bên rìa có sa mạc và bán sa mạc, còn có địa hình đồng cỏ hoang mạc, chỗ sâu, đất biến thành từng tầng cát lỏng lẻo, dưới tác động của gió, hình thành động cát chảy di động. Chúng tôi bị gió cát đưa đi, gò cát chảy thành vùng dày đặc, gió cát lớn, một chỗ ẩn nấp cũng không có!

Bọn tôi đáng ra không nên vì tiết kiệm thời gian mà tìm chiếc Jeep rách ở Tĩnh Biên, liều lĩnh tiến vào sa mạc, giờ gặp trận gió cát lớn thế này, trốn tới mương đất chỗ đám mộ quần táng của Tây Hạ mặc dù có thể tránh được bão, nhưng ở trong điều kiện bình thường, ít nhất cũng phải đi liền suốt hai ngày mới tới, ngang ngửa với đi về phía Nam ra khỏi sa mạc, bây giờ gặp chuyện thế này, không chừng chưa tới nơi đã bị gió cát vùi lấp!

Răng Vàng ngã chổng vó ra: "Lão hồ, tôi không đi được, vừa khát vừa mệt, thật sự thật sự không đi nổi!"

Tôi bảo Răng Vàng mau dậy, đây không phải lúc giả chết, gió cát tràn tới, chắc chắn sẽ chôn sống anh đó.

Răng Vàng nói: "Dù sao tôi cũng sắp chết rồi, anh bảo tôi đi nữa, thà để gió cát chôn đi...."

Tuyền Béo nói: "Nếu anh không muốn sống, tôi bẻ cái răng vàng này của anh đi, từ nay về sau nhớ anh, tôi lấy ra ngắm một phen."

Răng Vàng kinh hãi: "Không được! Để anh em chết toàn thây có được không hả?"

Tuyền Béo nói: "Không phải tôi yêu quý gi anh đâu, chờ tôi chơi chán rồi, tôi trả lại anh, để lên bàn thờ mà cúng!", nói rồi vén áo xắn tay, tiến tới đòi nhổ răng Răng Vàng.

Răng Vàng biết Tuyền Béo xuống tay thật, vội vàng nói: "Ngàn vạn lần chớ động thủ! Trong lòng tôi ấy mà, thật sự không nỡ bỏ canh hoa quế ô mai chua ướp lạnh Bắc Kinh, dùng đá cục ướp mà toát ra khí lạnh, dưới lửa một ngày một đêm, gặp một tô lớn như vậy, chẳng ai chối được! Chết rồi không uống được nữa, chịu phơi thây ở đây, chẳng bằng phải trở về thôi!"

Cả bọn không còn cách nào hơn quay đầu trở về, nếu vận khí tốt, có lẽ có thể may mắn trở lại mương đất nơi án táng quần mộ của quý tộc Tây Hạ để tránh gió cát. Chưa đi được mấy bước, Tuyền Béo lại đứng lại, chăm chăm nhìn thẳng lên trời. Tôi nói: "Anh cũng chưa thấy quan tài chưa đổ lệ phải không, còn muốn đợi đến lúc gió lớn nổi lên, hai chân mới mở chốt hả? Không mau đi còn nhìn trời làm gì?"

Tuyền Béo chỉ lên trên một cái: "Các anh có thấy không, thứ đồ chơi gì kia?"

Tôi nhìn theo tay anh ta, trên trời cao có một điểm nhỏ đen đen, ở giữa trời không nhúc nhích.

Răng Vàng nhìn lên, anh ta cũng há miệng không ngậm lại được, vật thể bay không xác định sao? Mấy năm qua, chủ đề đĩa bay vô cùng nóng bỏng, chúng tôi nghe nói qua vật thể bay không xác định được gọi là UFO, không ngờ co thể gặp được trong sa mạc. Vào đầu những năm sáu mươi bảy mươi, loại tình hình này cũng không hiếm, hồi đó người ta không gọi là vật thể bay không xác định, thường sẽ cho là phi cơ trinh sát của địch. Mấy bức hoạ cổ trên mỏm núi trong sa mạc cũng miêu tả loại chuyện kỳ lạ này. Thời xưa thứ đó gọi là tinh tra, tra là cái bè vượt biển, tinh tra là thuyền trên trời, không phải chỉ UFO thì là cái gì?