“Chiếc tất dài màu đỏ của anh đâu rồi?” Matthew chạy sầm sập xuống lầu, cau có trước đống hòm xiểng la liệt khắp sàn. Tâm trạng anh đã có một bước ngoặt quyết định trở nên tồi tệ hơn trên đường đi qua chuyến hành trình bốn tuần lễ khi chúng tôi phải tách Pierre, bọn trẻ và hành lý ở Hamburg. Chúng tôi mất thêm mười ngày nữa bởi di chuyển từ anh vào quốc gia theo Thiên Chúa giáo tính thời gian bằng một niên lịch khác. Ở Praha, giờ là ngày mười một tháng Ba, mà bọn trẻ và Pierre phải tới nơi rồi.
“anh sẽ không bao giờ tìm được nó trong đống hỗn độn này!” Matthew cằn nhằn, trút cơn bực dọc vào một chiếc váy lót của tôi.
Sau khi sống nhờ vào các túi buộc trên yên ngựa và độc nhất một cái rương dùng chung trong nhiều tuần lễ, tất cả đồ dùng tư trang được gửi đã đến ba ngày sau khi chúng tôi dọn vào một ngôi nhà hẹp ngang, cao chênh vênh trên con dốc đại lộ Sporrengasse dẫn tới lâu đài Praha. Những hàng xóm người Đức của chúng tôi đã gán tên phố là Spur bởi họ cho rằng đó là cách duy nhất để thuyết phục một con ngựa leo ngược lên phố.
“Em không biết anh có tất dài màu đỏ đấy,” tôi nói, đứng thẳng lên.
“Có chứ.” Matthew bắt đầu bới quanh một cái hòm đựng đồ vải lanh của tôi.
“Chúng không có trong đó đâu,” tôi nói, nhắc nhở điều hiển nhiên đó.
Chàng ma cà rồng nghiến răng. “anh đã tìm ở khắp mọi nơi rồi.”
“Để em tìm chúng cho.” Tôi nhìn chiếc quần legging đen đứng đắn một cách hoàn hảo của anh. “Tại sao phải là màu đỏ?”
“Vì anh đang cố gắng thu hút sự chú ý của Đức Hoàng Đế La Mã Thần Thánh kia!” Matthew sà vào một đống quần áo khác của tôi.
Đôi tất dài màu đỏ tươi như máu sẽ bắt mắt hơn, miễn sao người đàn ông chủ định mặc chúng là một ma cà rồng cao hơn một mét chín, và có đôi chân thật dài. Tuy nhiên, dụng tâm của Matthew cho kế hoạch này không hề nao núng. Tôi tập trung tinh thần, đòi hỏi chiếc quần tất tự hiện thân, và lần theo những sợi chỉ màu đỏ. Lần theo dấu vết của người và đồ vật là một khả năng hữu ích khi là một thợ dệt, và tôi đã có vài cơ hội tận dụng nó trên đường đi.
“Người đưa thư của cha anh đã đến chưa?” Matthew góp thêm một chiếc váy lót khác vào ngọn núi váy áo nằm giữa hai chúng tôi và định đào bới tiếp.
“Đến rồi, không biết là thứ gì, đang để cạnh cửa ấy.” Tôi tìm xuyên qua lòng một chiếc tủ búp phê quá khổ: một chuỗi những bao tay sắt, tấm khiên có hình đại bàng hai đầu trên mặt, và một đống đồ đạc bát đĩa được trau truốt tỉ mỉ. Tôi vui mừng khua khua những ống tất dài màu đỏ. “Tìm thấy rồi!”
Matthew đã quên bẵng mất cơn khủng hoảng hàng dệt kim này. Gói bưu kiện đang chiếm toàn bộ sự chú ý của anh. Tôi nhìn sang thứ đang khiến anh quá đỗi kinh ngạc.
“Đó… là một tác phẩm của Bosch à?” Tôi nhận ra tác phẩm của Hieronymus Bosch bởi cách dùng các dụng cụ giả kim và trường phái tượng trưng kỳ quái của ông ta. Ông ta phủ kín các tấm ván gỗ bằng những con cá chuồn, côn trùng, đồ gia dụng cỡ khổng lồ, và trái cây gợi cảm. Rất lâu trước khi trạng thái phê thuốc là mốt, Bosch đã nhìn thế giới này trong những sắc màu rực rỡ và sự kết hợp đáng lo ngại.
Tuy nhiên, giống như các tác phẩm Hobein của Matthew ở Chòi Gác Cổ, công trình này rất lạ. Nó là một bộ ba bức tranh, được ghép từ ba tấm ván gỗ có khớp nối. Nó được thiết kế để đặt trên bệ thờ, các bộ tranh ba bức được giữ kín ngoại trừ những dịp lễ tôn giáo đặc biệt, và hiếm khi được trưng bày bên ngoài các viện bảo tàng hiện đại. Tôi băn khoăn không biết mình còn bỏ lỡ hình ảnh đáng kinh ngạc nào nữa không.
Người họa sĩ đã phủ ra bên ngoài các tấm ván một chất nhuộm màu đen mượt như nhung. một cái cây khô queo đang lung linh tỏa sáng dưới ánh trăng vắt ngang qua mặt trước cả hai tấm ván kia. một con sói tí hon núp mình dưới đám rễ, và một con cú đậu trên cành cây cao. Cả hai con vật đều nhìn chằm chằm vào người xem một cách cố ý. Hàng tá những con mắt khác sáng quắc nổi lên từ nền tối đen quanh cái cây, quái gở và lộ liễu. Phía sau cây sồi chết, sừng sững những cái cây tưởng chừng như bình thường với thân màu xanh nhợt và cành màu xanh lục óng ánh tỏa sáng nhiều hơn cho khung cảnh. Chỉ khi nhìn kỹ hơn, tôi mới thấy những cái tai đang mọc trên cây, như thể chúng đang lắng nghe âm thanh của đêm.
“Nó có ý nghĩa gì?” Tôi hỏi, nhìn chằm chằm vào tác phẩm của Bosch thắc mắc.
Các ngón tay Matthew nghịch ngợm những cái móc trên chiếc áo chẽn của anh. “Nó diễn giải một câu tục ngữ cổ của Flemish: ‘Tai vách, mạch rừng; bởi vậy tôi sẽ quan sát, im lặng, và lắng nghe.’” Câu nói này gói gọn hoàn hảo cuộc đời đầy bí mật của Matthew và gợi tôi nhớ tới khẩu hiệu hiện thời của Elizabeth. Lớp bên ngoài của bộ tranh mô tả ba phong cảnh có mối tương quan với nhau: một bức tả những thiên thần sa ngã, được vẽ trên cùng phông nền đen mượt như nhung. Ban đầu thoáng nhìn, trông họ như những con chuồn chuồn với đôi cánh kép tỏa sáng lung linh, nhưng lại có thân thể của con người, với đầu và chân vặn xoắn lại trong sự tra tấn, giống các thiên thần rơi xuống từ thiên đường. trên tấm ván đối diện, bông hồng chết dành cho Cuộc Phán Xét Cuối Cùng trong một khung cảnh còn khủng khiếp hơn cả những bức bích họa ở Sept-Tours. Những chiếc quai hàm mở toang của cá và sói là lối vào địa ngục, nhét vào đó kẻ bị đọa đầy và ký thác chúng cho nỗi đau đớn giày vò bất tận.
Tuy nhiên bức ở chính giữa lại là một hình ảnh rất khác về cái chết: Lazarus hồi sinh điềm nhiên trèo ra khỏi quan tài của ông ta. Với đôi chân dài, mái tóc đen, nét mặt nghiêm nghị, nhìn khá giống Matthew. Xung quanh viền tấm ván ở giữa, những cây nho thiếu sinh khí kết hoa trái lạ lùng. một số nhỏ máu. Số còn lại sinh ra con người và loài vật. Và không hề có Chúa Jesus trong toàn bộ tác phẩm.
“Lazarus giống anh. Chả trách anh không muốn Rudolf có nó.” Tôi đưa cho Matthew đôi tất của anh. “Bosch hẳn cũng phải biết anh là ma cà rồng.”
“Jeroen – hay Hieronymus như em biết – đã thấy vài điều ông ta không nên thấy,” Matthew u ám nói. “anh không biết Jeroen đã chứng kiến cảnh anh ăn cho tới khi anh thấy các bức phác họa ông ta vẽ anh với một sinh vật máu nóng. Từ ngày đó, ông ta tin tất cả sinh vật đều có bản chất hai mặt, một phần con, một phần người.”
“Và đôi khi có cả một phần thực vật nữa,” tôi nói, ngắm nghía một người phụ nữ khỏa thân có một trái dâu tây làm đầu và những trái sơ ri làm bàn tay đang chạy trốn một con quỷ nắm đinh ba đội một con cò như mũ. Matthew thốt lên thích thú. “Có phải Rudolf cũng biết anh là ma cà rồng, giống như Elizabeth và Bosch không?” Tôi ngày càng lo lắng hơn vì số lượng người biết bí mật này.
“Đúng thế. Hoàng đế cũng biết anh là thành viên của Đại Hội Đồng.” anh vặn xoắn cái quần tất màu đỏ tươi thành một cái nút. “Cảm ơn em đã tìm ra chúng.”
“Giờ hãy cho em biết nếu anh có thói quen đánh mất chìa khóa ô tô, bởi vì em không muốn bị dính vào cơn hoảng loạn kiểu này mỗi buổi sáng khi anh sắp sửa đi làm đâu.” Tôi luồn hai cánh tay vòng qua thắt lưng anh và áp má lên trái tim anh. Nhịp đập chậm rãi đều đặn đó luôn khiến tôi thấy an tĩnh.
“Em sẽ làm gì nào, ly dị anh sao?” Matthew đáp trả lại cái ôm âu yếm, ngả đầu lên đầu tôi để chúng tôi vừa khít với nhau một cách hoàn hảo.
“anh đã hứa với em ma cà rồng không ly dị mà.” Tôi siết anh một cái. “anh sẽ giống một nhân vật hoạt hình nếu anh mặc đôi tất đỏ ấy vào. Nếu là anh, em sẽ đi đôi màu đen. anh sẽ nổi trội miễn bàn.”
“Đồ phù thủy,” Matthew nói, rồi buông tôi ra với một nụ hôn.
anh đi lên đồi tới lâu đài, mặc chiếc quần tất đen đứng đắn và mang theo một cuộn thư dài ngoằng, (thực ra là đoạn thơ) đề nghị Rudolf một cuốn sách tuyệt diệu cho bộ sưu tập của ông ta. anh trở xuống sau bốn giờ đồng hồ, với đôi tay không, và lá thư đã giao cho một tên hầu của hoàng đế. không có một cuộc diện kiến nào. Thay vào đó Matthew đã đợi cùng với tất cả các vị đại sứ khác đang cầu kiến.
“Kẹt trong một lâu đài với cả đám thân thể nóng ấm đó nhốt lại cùng nhau thích thật. anh đã cố tìm một chỗ nào đó thoáng để thở, nhưng dãy phòng quanh đó đầy nhóc phù thủy.”
“Phù thủy ư?” Tôi trèo xuống khỏi cái bàn đang dùng để cất thanh gươm của Matthew an toàn lên nóc tủ để đồ bằng vải lanh chuẩn bị chờ khi Jack đến.
“Khoảng mấy chục người,” Matthew nói. “Họ đang phàn nàn về những chuyện xảy ra ở Đức. Gallowglass đâu rồi?”
“Cháu trai anh đang đi mua trứng và bảo đảm an ninh phục vụ cho ngôi nhà bằng một quản gia và một đầu bếp.” Françoise đã thẳng thừng từ chối tham gia cuộc hành trình cùng chúng tôi tới Trung Tâm Châu Âu, nơi cô ấy coi là vùng đất vô thần của Lutheran. Giờ cô ấy đã quay về Chòi Gác Cổ, làm tình làm tội Charles. Gallowglass đang phục vụ như thư đồng và tổng quản gia của tôi cho tới khi những người khác đến. anh chàng nói tiếng Đức và Tây Ban Nha tuyệt hảo, điều đó khiến anh chàng trở nên không thể thiếu được khi liên quan tới việc cung cấp thực phẩm cho cả nhà. “Kể cho em nghe thêm về các phù thủy đi.”
“Thành phố này là một thiên đường an toàn cho mọi sinh vật khác người ở Trung Tâm Châu Âu, những kẻ lo lắng cho sự an toàn của mình – yêu tinh, ma cà rồng, hoặc phù thủy. Nhưng các phù thủy thì được đặc biệt chào đón trong triều đình của Rudolf, bởi ông ta thèm muốn tri thức của họ. Cả sức mạnh của họ nữa.”
“thật thú vị!” Tôi nói. Ngay khi tôi bắt đầu băn khoăn về nhân dạng của họ thì một loạt các gương mặt đã xuất hiện trước con mắt thứ ba của tôi. “Người pháp sư có bộ râu đỏ là ai thế? Còn phù thủy có một mắt xanh lam và một mắt xanh lục nữa?”
“Chúng mình sẽ không ở đây lâu để cần quan tâm đến nhân dạng của họ,” Matthew cấm cảu nói trên đường ra cửa. Vì phải kiêm thêm một ngày làm việc cho Elizabeth, nên anh định qua bên kia sông tới thành phố Praha cổ với danh nghĩa Đại Hội Đồng. “anh sẽ gặp em trước khi trời tối. Hãy ở đây cho tới khi Gallowglass trở về nhé. anh không muốn em chuồn mất đâu.” Cũng có thể hiểu anh ấy không muốn tôi túm năm tụm ba với bất kỳ phù thủy nào.
Gallowglass trở lại Sporrengasse với hai ma cà rồng và một cây bánh quy xoắn. anh chàng đưa món sau cho tôi và giới thiệu những người hầu mới. Karolína (đầu bếp) và Tereza (quản gia) là thành viên của một thị tộc có dây mơ rễ má với các ma cà rồng Bohemia chuyên phục vụ tầng lớp quý tộc và những vị khách ngoại quốc quan trọng. Giống như những người hầu cận của nhà de Clermont, họ có danh tiếng – và một mức lương lớn khác thường – bởi tuổi thọ siêu nhiên và lòng trung thành như loài sói của họ. Vì mức giá thích đáng, nên chúng tôi cũng đồng thời mua được sự cam đoan đảm bảo giữ bí mật từ người đứng đầu thị tộc, vị này đã chuyển những người phụ nữ từ nhà của một đại sứ giáo hoàng đến. Vị đại sứ hòa nhã đồng ý chiều theo những người nhà de Clermont. Xét đến cùng thì bọn họ đều là công cụ sắp đặt cuộc bầu cử đức giáo hoàng mới đây, và ông ta biết ai là người phết bơ lên miếng bánh mỳ của mình. Còn tôi chỉ quan tâm đến chuyện Karolína biết làm món trứng tráng cho bữa sáng thôi.
Gia nhân trong nhà chúng tôi đã được thiết lập xong, Matthew tếch lên ngọn đồi mỗi sáng để tới lâu đài trong khi tôi dỡ hành lý, gặp gỡ hàng xóm láng giềng trong khu phụ cận bên dưới lâu đài gọi là Malá Strana, và trông ngóng các thành viên còn vắng mặt trong nhà. Tôi nhớ sự vui tươi và đôi mắt mở to tò mò của Annie, cũng như khả năng bất bại lôi kéo rắc rối của Jack. Con đường quanh co của chúng tôi đầy những đứa trẻ đủ mọi độ tuổi và quốc tịch, vì hầu hết các đại sứ đều sống ở đây. Hóa ra Matthew không phải là người ngoại quốc duy nhất ở Praha mà hoàng đế tránh thân cận. Mọi người tôi gặp đều thiết đãi Gallowglass những câu chuyện về việc Rudolf đã làm mất mặt một số nhân vật có địa vị quan trọng như thế nào chỉ để dành vài giờ với một gã bán đồ cổ ham đọc sách đến từ Ý hoặc một gã thợ mỏ hèn mọn đến từ Saxony.
Vào buổi chiều muộn một ngày đầu xuân, ngôi nhà đang tràn ngập mùi thơm nức của món thịt lợn và bánh hấp bình dị thì một tên nhóc tầm tám tuổi hay gây lộn chặn ngang.
“Bà Roydon!” Jack reo lên, mặt vùi vào trong vạt áo tôi còn hai cánh tay ôm chặt lấy tôi. “Bà có biết thật ra có bốn thành phố ở Praha không? London chỉ duy nhất một thành phố. Còn cái lâu đài kia và dòng sông cũng thế. Pierre sẽ chỉ cho cháu xem cối xay nước vào ngày mai.”
“Chào Jack,” tôi nói, xoa đầu thằng bé. Ngay cả trong cuộc hành trình rét cóng, ăn cháo suông đến Praha, thằng bé vẫn cao vổng lên được. Pierre chắc đã phải xúc cả xẻng đồ ăn cho thằng bé. Tôi ngước lên mỉm cười với Annie và Pierre.
“Matthew sẽ rất vui vì tất cả mọi người đã đến. anh ấy nhớ mọi người lắm.”
“Chúng cháu cũng nhớ ông ấy,” Jack nói, ngả cái đầu ra sau để ngước nhìn tôi. Thằng bé có mấy quầng thâm dưới mắt, bất chấp việc lớn phổng hẳn lên thằng bé trông vẫn xanh xao.
“Cháu có bị ốm không?” Tôi hỏi, tay đưa lên sờ trán thằng bé. Những cơn cảm lạnh có thể trở nên nguy hiểm chết người trong khí hậu khắc nghiệt thế này, người ta đang bàn tán về một bệnh dịch kinh khủng trong khu thành cổ mà Matthew nghĩ có chiều hướng trở thành một dịch cúm.
“Thằng bé đang có rắc rối với chuyện ngủ nghê,” Pierre khẽ nói. Tôi có thể hiểu ngữ điệu nghiêm trọng của anh ta rằng đã có chuyện hơn thế, nhưng có thể đợi sau.
“Thế thì đêm nay cháu phải ngủ nhé. Có một chiếc giường lông khổng lồ trong phòng cháu đấy. đi với Tereza đi, Jack. Bà ấy sẽ hướng dẫn mọi thứ và cho cháu tắm rửa trước bữa tối.” Trong sự quan tâm đúng đắn của ma cà rồng, các sinh vật máu nóng sẽ ngủ cùng Matthew và tôi trên tầng hai, vì ngôi nhà hẹp bề ngang chỉ cho phép có một phòng để đồ và nhà bếp ở tầng trệt. Điều đó có nghĩa tầng một được bố trí thành phòng trang trọng dành đón tiếp khách. Gia nhân còn lại trong nhà là ma cà rồng đã tuyên bố chủ quyền với tầng thứ ba cao ngất, là nơi có tầm nhìn và những ô cửa sổ thoáng đãng có thể mở toang để đón khí trời.
“Ông Roydon!” Jack hét inh tai, nhào tới cửa và mở toang cánh cửa ra trước khi Tereza kịp ngăn nó lại. Làm thế nào thằng bé phát hiện ra Matthew là một chuyện bí ẩn, vì trời đã tối mịt còn từ đầu tới chân Matthew thì bao trong vải len màu xám tro.
“Thong thả nào,” Matthew nói, tóm lấy Jack trước khi thằng bé tự làm đau mình bằng cách đâm thẳng vào đôi chân cứng như đá của ma cà rồng. Gallowglass nắm lấy cái mũ lưỡi chai của thằng bé khi nó chạy qua, làm rối tung mái tóc.
“Chúng cháu gần như đông cứng cả người. trên sông ấy. Còn xe trượt tuyết bị lật nhào một lần, nhưng con chó không bị thương. Cháu ăn thịt lợn lòi nướng. Annie thì bị vướng váy vào thùng xe và suýt té nhào.” Jack không thể kể chi tiết về hành trình của họ mà lại thật nhanh được. “Cháu đã trông thấy một ngôi sao băng. Nó không lớn lắm, nhưng Pierre bảo cháu phải chia sẻ nó với ông Harriot khi chúng ta quay về nhà. Cháu đã vẽ một bức tranh về nó cho ông ấy.” Jack thò tay vào trong chiếc áo chẽn bụi bặm của nó và lôi ra một mẩu giấy cũng cáu bẩn không kém. Thằng bé trình tờ giấy cho Matthew với sự sùng kính như đối với một thánh tích thiêng liêng.
“Bức tranh đẹp đấy,” Matthew nói, ngắm nghía bức vẽ với sự quan tâm thích đáng. “Ta thích cách cháu thể hiện đường cong của cái đuôi. Và cháu đặt các ngôi sao khác quanh nó. Điều đó rất khôn ngoan, Jack ạ. Ông Harriot sẽ vui mừng trước khả năng quan sát của cháu đấy.”
Jack đỏ mặt. “Đó là mảnh giấy cuối cùng của cháu. Họ có bán giấy ở Praha không ạ?” Hồi ở London, Matthew vẫn cung cấp cho Jack một túi đầy những mảnh giấy thừa vào mỗi sáng. Làm thế nào Jack xài hết được chúng thì đó là vấn đề của mấy trò mua bán.
“Thành phố này ngập những thứ đó,” Matthew nói. “Pierre sẽ đưa cháu tới cửa hàng ở Malá Strana vào ngày mai.”
Sau lời hứa hẹn kích thích đó, thật khó khăn mới đưa bọn trẻ lên lầu được, nhưng Tereza đã chứng tỏ là người sở hữu sự kết hợp quý giá giữa dịu dàng êm ái và tính kiên quyết cứng rắn để hoàn thành nhiệm vụ. Điều đó tạo cho bốn người lớn một cơ hội nói chuyện tự do.
“Jack bị ốm à?” Matthew cau mày hỏi Pierre.
“không, milord. Từ khi chúng tôi rời khỏi các vị, thằng bé bị khó ngủ.” Pierre ngập ngừng. “Tôi nghĩ ác quỷ trong quá khứ ám thằng bé.”
Trán Matthew giãn ra, nhưng trông anh vẫn khá lo lắng. “nói cách khác hành trình vẫn đúng như cậu mong đợi chứ?” Đây là cách khôn ngoan để hỏi xem liệu họ có bị trở ngại bởi bọn cướp đường hay bị quấy nhiễu bởi những sinh vật siêu nhiên hay siêu phi thường không.
“Đó là một chuyến đi dài và lạnh giá,” Pierre bình thản nói, “và bọn trẻ thường xuyên đói.”
Gallowglass rống lên cười. “À, cái đó nghe có vẻ đúng đấy.”
“Còn ngài, milord?” Pierre bắn một cái liếc mắt kín đáo cho Matthew. “Praha có như ngài mong đợi không?”
“Rudolf không gặp ta. Người ta đồn đại rằng Kelly ở trên tầng cao nhất của Tháp Phấn, thổi bay những vạc chưng cất và có Chúa biết còn gì khác nữa,” Matthew kể.
“Còn Thành Cổ thì sao?” Pierre tinh tế hỏi.
“Vẫn nhiều như vậy.” Giọng Matthew hồ hởi và nhẹ nhàng – tặng kèm một cảm giác chết chóc cho thấy anh ấy để tâm đến một điều gì đó.
“Miễn là chú phớt lờ đi những chuyện ngồi lê đôi mách đến từ khu phố Do Thái. một phù thủy của họ đã tạo ra một sinh vật từ đất sét, và thứ đó vẫn đi lảng vảng trên đường phố vào ban đêm.” Gallowglass quay sang nhìn ông chú mình bằng ánh mắt ngây thơ vô tội. “Trừ việc đó, hầu như không có gì thay đổi kể từ lần cuối chúng ta đến đây giúp hoàng đế Ferdinand trấn thành năm 1547.”
“Cảm ơn, Gallowglass,” Matthew nói. Giọng anh lạnh lẽo như gió cuộn trên sông.
Việc tạo nên một sinh vật từ bùn đất và thổi cảm xúc vào đó đòi hỏi nhiều hơn một bùa chú thông thường. một lời đồn đại như vậy mang ý nghĩa: Đâu đó tại Praha này có một thợ dệt giống tôi, có thể di chuyển giữa hai thế giới của người sống và người chết. Nhưng tôi không cần phải moi thêm bí mật từ Matthew nữa, cháu trai của anh đã tiết lộ trước rồi.
“Chú không định giữ kín tin tức về sinh vật đất sét với cô đấy chứ?” Gallowglass ngạc nhiên lắc đầu. “Vậy là chú không dành thời gian loanh quanh ở chợ rồi. Đám phụ nữ Malá Strana biết đủ mọi chuyện, bao gồm cả chuyện hoàng đế ăn gì vào bữa sáng hay việc ông ta từ chối gặp chú nữa.”
Matthew lướt các ngón tay lên bề mặt gỗ được sơn vẽ của bộ tranh và thở dài. “Cậu phải mang thứ này tới lâu đài, Pierre.”
“Nhưng đó là bộ tranh trang trí sau bàn thờ ở Stept-Tours,” Pierre phản đối. “Hoàng đế nổi tiếng bởi sự cẩn trọng. Chắc chắn chỉ là vấn đề thời gian trước khi ông ấy chấp nhận ngài.”
“Thời gian chính là thứ chúng ta thiếu, nhà de Clermont còn vô khối những bộ tranh thế này,” Matthew buồn bã nói. “Để ta viết một bức thư ngắn gửi hoàng đế rồi cậu có thể lên đường.”
Pierre mang bức tranh đi ngay sau đó, và cũng tay trắng trở về y như Matthew, không có lời hứa hẹn nào về một cuộc gặp mặt trong tương lai.
Xung quanh tôi, những sợi chỉ nối các thế giới đang thít chặt lại và thay đổi trong một lưới dệt quá lớn mà tôi không thể lĩnh hội hay hiểu hết được. Nhưng có thứ gì đó đang được trù tính ở Praha. Tôi có thể cảm thấy nó.
Đêm hôm đó, tôi tỉnh dậy vì những giọng nói khe khẽ trong căn phòng liền kề phòng ngủ. Matthew không ở bên cạnh tôi, anh đang đọc sách khi tôi chìm vào giấc ngủ. Tôi nhẹ bước tới cánh cửa xem ai đang ở cùng anh.
“nói cho ta xem chuyện gì xảy ra khi che đi một bên mặt của con quái vật.” Matthew di chuyển tay trên một tờ giấy khổ lớn trước mặt.
“Trông nó có vẻ xa hơn!” Jack thì thầm, khiếp sợ bởi sự biến đổi này.
“Cháu thử đi,” Matthew vừa nói vừa đưa cho Jack cây bút. Jack nắm lấy nó với sự tập trung cao độ. Matthew đưa tay xoa lưng, làm thư giãn các cơ bắp căng cứng quanh khung xương mảnh khảnh của thằng bé. Jack không ngồi hẳn trên đầu gối mà dựa vào thân hình to lớn dễ chịu của chàng ma cà rồng để tìm sự ủng hộ. “Nhiều quái vật quá,” Matthew thì thầm, đón gặp ánh mắt tôi.
“Ông có muốn vẽ những quái vật của mình không?” Jack đẩy tờ giấy về phía Matthew. “Sau đó ông cũng có thể ngủ được đấy.”
“Quái vật của cháu đã dọa chúng chạy biến rồi,” Matthew nói, chuyển sự chú ý về phía Jack, mặt anh thoáng nét u buồn. Tim tôi đau nhói bởi tất cả những gì cậu bé đã phải chịu trong quãng đời ngắn ngủi, khó nhọc của mình.
Matthew lại nhìn vào mắt tôi và khẽ gật đầu ra hiệu rằng anh đang kiểm soát được mọi chuyện. Tôi gửi anh một nụ hôn gió và trở về với cái ổ lông ấm áp trên giường chúng tôi.
Ngày hôm sau chúng tôi nhận được một lá thư từ hoàng đế. Nó được gắn niêm phong bằng lớp xi dày và những dải ruy băng.
“Bức tranh đã có tác dụng, milord,” Pierre nói vẻ biết lỗi.
“Nó có tiếng tăm mà. Ta yêu bức tranh đó. Giờ ta sẽ mất một khoảng thời gian chết tiệt để được đặt tay lên nó lần nữa,” Matthew nói, ngả lưng vào ghế. Tiếng gỗ kẽo kẹt phản đối. Matthew với lấy lá thư. Văn phong được trau chuốt kỹ càng, với quá nhiều chỗ xoắn và uốn lượn khiến cho các chữ cái thật khó nhận ra.
“Tại sao bản viết tay này lại hoa mỹ thế?” Tôi thắc mắc.
“Người nhà Hoefnagel đã trở về từ Vienna và chẳng biết bỏ thời gian vào việc gì. Chữ viết tay càng lạ càng tốt, miễn là bệ hạ quan tâm,” Pierre trả lời một cách khó hiểu.
“anh sẽ đến gặp Rudolf chiều nay,” Matthew nói với nụ cười thỏa mãn, gấp lá thư lại. “Cha anh sẽ vui lắm. Ông cũng đã gửi một số tiền và trang sức, nhưng có thể thấy rằng nhà de Clermont bị xem nhẹ ở thời kỳ này.”
Pierre đưa ra một lá thư khác nhỏ hơn, địa chỉ được viết bằng kiểu chữ giản dị hơn. “Hoàng đế bổ sung thêm một phần tái bút. Do chính tay người viết.”
Tôi ngó qua vai Matthew khi anh đọc nó.
“Bringen das Buch. Und die Hexe.” Chữ ký uốn lượn của hoàng đế ở dưới với chữ R trau chuốt, chữ d và l móc vòng vào nhau cùng hai chữ f.
Tiếng Đức của tôi chỉ lờ mờ, nhưng thông điệp này thì thật rõ ràng: Mang theo cuốn sách. Và cô phù thủy.
“anh đã nói quá sớm,” Matthew lẩm bẩm.
“Cháu đã bảo chú hãy câu ông ta bằng mấy bức tranh sơn dầu lớn của Titian vẽ nữ thần Venus mà ông nội lấy từ tay vua Philip khi vợ ông ta phản đối mà,” Gallowglass nói. “Giống như ông chú của mình, Rudolf luôn có sở thích quái đản với những mái tóc đỏ cùng những bức tranh tao nhã.”
“Và các phù thủy,” chồng tôi thì thầm nói. anh ném bức thư lên bàn. “không phải bức tranh đã thu hút được ông ta, mà là Diana. Có lẽ ta nên từ chối lời mời này.”
“Đó là một mệnh lệnh, chú ạ.” Lông mày của Gallowglass nhíu lại.
“Và Rudolf có Ashmole 782,” tôi nói. “Nó sẽ không đơn giản xuất hiện trước mặt Ba Con Quạ ở Sporrengasse. Chúng ta sẽ phải tìm nó.”
“cô đang gọi chúng ta là quạ ư?” Gallowglass nói với vẻ chế giễu.
“Tôi đang nói về biển hiệu của ngôi nhà này, đồ ngốc.” Như mọi cư dân khác trên con đường này, chúng tôi có một biểu tượng gắn trên cửa chứ không phải số nhà. Sau khi khu vực lân cận bị hỏa hoạn vào giữa thế kỷ, tiên hoàng đã khăng khăng dùng cách khác để phân biệt các ngôi nhà ngoài các hình trang trí phổ biến chạm trên lớp thạch cao.
Gallowglass cười nhăn nhở. “Tôi biết ý cô là gì. Nhưng tôi rất thích thấy cô phát sáng như vậy mỗi khi glaem nổi lên.”
Tôi kéo bùa chú ngụy trang quanh mình bằng một tiếng đằng hắng, nó giúp che mờ đi ánh sáng của tôi đến mức chấp nhận được giống con người.
“Bên cạnh đó,” Gallowglass tiếp tục. “Trong giới của tôi, được so sánh giống quạ là một lời khen ngợi lớn đấy. Tôi sẽ là Muninn, Matthew là Huginn. Còn cô sẽ là Göndul, cô ạ. cô sẽ tạo nên một Valkyrie đẹp đấy.”
“anh chàng đang nói gì thế?” Tôi ngây ra hỏi Matthew.
“Những con quạ của Odin. Và các con gái của ông ta.”
“Ồ, cảm ơn cậu, Gallowglass,” tôi ngượng ngùng nói. Hẳn là không tệ khi được so sánh giống với con gái một vị thần.
“Cho dù cuốn sách này của Rudolf là Ashmole 782 đi nữa, cũng không chắc chắn nó chứa đựng câu trả lời cho các câu hỏi của chúng ta.” Trải nghiệm của chúng tôi với cuốn sách cổ Voynich vẫn làm Matthew lo lắng.
“Các sử gia không bao giờ biết liệu một văn bản có mang đến những câu trả lời hay không. Dù không có câu trả lời thì kết quả là chúng ta vẫn thu được những câu hỏi thú vị hơn,” tôi đáp.
“Thôi được.” Môi Matthew cong lên. “Vì anh không thể đến gặp hoàng đế hay tới thư viện của ông ta mà không có em, còn em sẽ không rời khỏi Praha mà không có cuốn sách, nên chẳng còn lựa chọn nào khác. Chúng ta sẽ cùng đến lâu đài.”
“Gậy ông đập lưng ông rồi,” Gallowglass khoái trá nói. anh chàng nháy mắt trêu tôi.
So với chuyến viếng thăm của chúng tôi tới Richmond thì chuyến đi ngược lên con phố để gặp hoàng đế thế này giống việc chạy sang mượn nhà hàng xóm một cốc đường hơn – mặc dù việc này đòi hỏi phục sức trang trọng hơn. Phu nhân ngài đại sứ của giáo hoàng cũng tầm vóc như tôi, tủ váy áo của bà ấy đã cung cấp cho tôi trang phục xa hoa phù hợp cho vợ của một nhân vật quyền cao chức trọng ở nước anh – hoặc một người nhà de Clermont, bà ấy nhanh nhảu bổ sung thêm. Tôi thích phong cách ăn mặc của các mệnh phụ giàu có ở Praha: áo dài cao cổ đơn giản, chân váy hình chuông, áo khoác được thêu hoa văn trang trí với tay áo lửng viền lông thú. Những chiếc cổ áo xếp nếp nhỏ có tác dụng với tôi như rào cản không khí bên ngoài.
Matthew đã vui vẻ từ bỏ kế hoạch với đôi tất dài màu đỏ để trở về với màu xám và đen bình thường, điểm thêm màu xanh cổ vịt, thứ sắc màu hấp dẫn nhất mà tôi từng thấy anh mặc. Ráng chiều chiếu những tia sáng đầy màu sắc lên các đường xẻ dọc của chiếc quần chẽn củ hành và quanh cổ chiếc áo khoác mở phanh.
“Trông anh tuyệt lắm,” tôi nói sau khi ngắm nghía anh.
“Còn em trông như một quý tộc Bohemian chính hiệu ấy,” anh đáp lại, rồi hôn lên má tôi.
“Giờ chúng ta đi được chưa ạ?” Jack thúc giục, nhảy tung tăng vẻ nôn nóng. Ai đó đã kiếm được cho cậu nhóc một bộ chế phục màu đen-bạc cùng một cây thánh giá và trăng lưỡi liềm gắn trên tay áo.
“Vậy chúng ta sẽ đi với tư cách là người nhà de Clermont, chứ không phải nhà Roydon,” tôi chậm rãi nói.
“không. Chúng ta là Matthew và Diana Roydon,” Matthew đáp. “Chúng ta đang đi du lịch với những người hầu của gia đình de Clermont.”
“Điều đó sẽ làm mọi người nhầm lẫn,” tôi bình luận trong khi rời khỏi nhà.
“Chính xác,” Matthew tươi tắn mỉm cười đáp.
Nếu phải đi như dân thường thì chúng tôi sẽ leo lên các bậc thang cung điện mới kế bờ tường thành. Thay vì thế chúng tôi đi ngược lên Sporrengasse bằng ngựa với tư cách là đại diện của nữ hoàng anh, điều này tạo cơ hội cho tôi ngắm nhìn những ngôi nhà với đài phun nước nằm nghiêng, những hình vẽ trang trí đầy màu sắc, và những biển hiệu được sơn vẽ. Chúng tôi đi ngang qua ngôi nhà Sư Tử Đỏ, Ngôi Sao Vàng, Thiên Nga, và Song Dương. Lên đỉnh đồi, chúng tôi rẽ sang khu lân cận đầy những dinh thự của quý tộc và những người được bổ nhiệm trong triều, gọi là Hradcany.
Đây không phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy tòa lâu đài, nó sừng sững trùm bóng lên khu vực xung quanh khi chúng tôi tiến vào Praha và từ cửa sổ nhà cũng có thể ngước nhìn thấy các bức tường bao. Nhưng đây là lần tôi nhìn ở khoảng cách gần, lâu đài thậm chí còn lớn và đồ sộ hơn, giống như một thành phố hoàn toàn tách biệt với đầy đủ các ngành công nghiệp và thương mại. Phía trước là những tòa tháp nhọn theo phong cách Gothic của nhà thờ St.Vitus, với tháp canh tròn nổi bật trên các bức tường. Mặc dù được xây dựng để phòng thủ, nhưng các tòa tháp canh giờ là nhà xưởng cho hàng trăm thợ thủ công, những người đã xây dựng gia đình tại vương triều của Rudolf.
Lính gác cung điện cho phép chúng tôi đi qua cổng phía tây và tiến vào một sân nhỏ khép kín. Sau khi Pierre và Jack mang ngựa đi, chúng tôi được hộ tống hướng tới một dãy nhà bị kẹt giữa những bức tường lâu đài. Chúng được xây cách đây không lâu, đá vẫn còn thô nhám và sáng trắng, trông như những tòa văn phòng, nhưng phía trên tôi có thể thấy mái nhà cao và các tác phẩm bằng đá thời kỳ phục hưng.
“Chuyện gì thế?” Tôi thì thầm với Matthew. “Tại sao chúng ta không tới cung điện?”
“Bởi không có ai ở đó quan trọng cả,” Gallowglass nói. anh chàng ôm cuốn sách cổ Voynich trong tay, nó được gói an toàn trong một tấm da và buộc bằng dây để giữ các trang sách khỏi cong vênh trước tiết trời ẩm ướt.
“Rodolf thấy Cung Điện Hoàng Gia cũ này thật ẩm thấp và tối tăm,” Matthew vừa giải thích vừa giúp tôi đi qua đám sỏi cuội trơn trượt. “Cung điện mới của ông ta quay mặt về phía nam và nhìn ra một khu vườn riêng. Ở đây ông ta được cách xa khỏi nhà thờ - và các thầy tu.”
Các hành lang của tòa nhà tấp nập người qua lại và hò hét đủ mọi thứ tiếng Đức, Séc, Tây Ban Nha, và La tinh tùy thuộc xuất xứ từ vùng nào trong đế quốc của Rudolf. Càng đến gần hoàng đế, hoạt động càng trở nên hỗn loạn hơn. Chúng tôi đi qua một căn phòng đầy ắp người đang tranh luận trước các bản vẽ kiến trúc. một phòng khác lại tranh luận sôi nổi về giá trị của một chiếc bát bằng vàng-đá được thiết kế tinh tế giống vỏ sò biển. Cuối cùng lính gác để chúng tôi lại trong một căn phòng khách dễ chịu với những chiếc ghế bành nặng nề, một bếp lò được lát đá tỏa ra một lượng nhiệt năng khổng lồ, và hai người đàn ông đang mải mê chuyện trò. Họ quay lại hướng về phía chúng tôi.
“Chúc một ngày tốt lành, bạn cũ,” người đàn ông hiền lành tầm sáu mươi tuổi nói bằng tiếng anh. Ông ta tươi cười với Matthew.
“Tadeáš.” Matthew nồng nhiệt nắm lấy cánh tay ông ta. “Trông ông khỏe mạnh đấy.”
“Còn anh bạn trông trẻ trung đấy.” Đôi mắt ông ta long lanh, cái nhìn thoáng qua không gợi lên phản ứng nào trên da tôi. “Còn đây là người phụ nữ mà mọi người đang bàn tán. Tôi là Tadeáš Hájek.” Người đàn ông cúi đầu chào, và tôi nhún gối đáp lại.
một quý ông mảnh khảnh có nước da màu oliu và mái tóc gọn gàng đen nhánh như tóc Matthew dạo bước về phía chúng tôi. “Ông Strada,” Matthew nói kèm theo một cái cúi đầu chào. anh không vui khi thấy người đàn ông này như với người trước đó.
“cô ta thật sự là phù thủy à?” Strada ngắm nghía tôi vẻ thích thú. “Nếu vậy em gái Katharina của tôi sẽ thích gặp cô ta đấy. Con bé đang có mang, việc thai nghén đang gây rắc rối cho nó.”
“Chắc chắn rồi Tadeáš – bác sĩ của hoàng gia – sẽ thích hợp hơn nếu gặp mặt sau khi sinh hoàng tử,” Matthew nói, “hay em gái ngài có gì thay đổi sao?”
“Hoàng đế vẫn sủng ái em gái tôi,” Strada lạnh nhạt đáp. “Vì lý do kia mà những ý thích thất thường của nó được nuông chiều.”
“Các vị gặp Joris chưa? Ông ta vẫn chẳng nói chuyện gì khác ngoài bộ tranh trang trí điện thờ của anh kể từ lúc bệ hạ mở nó ra,” Tadeáš hỏi, chuyển hướng chủ đề.
“không, vẫn chưa.” Matthew đưa mắt nhìn tới cửa. “Hoàng đế ở trong đó à?”
“Đúng thế. Người đang xem một bức tranh mới của ông Spranger. Nó rất lớn và… à, chi tiết.”
“một bức tranh khác của thần Venus,” Strada cười khẩy nói.
“Nữ thần Venus này nhìn khá giống em gái ngài đấy.” Hájek cười.
“Ist das Matthäus höre ich?” một giọng âm mũi cất từ cuối căn phòng. Mọi người quay lại và cúi rạp chào. Tôi cũng máy móc nhún gối chào. Sắp có một màn khó khăn tiếp sau cuộc trò chuyện rồi đây. Tôi đã hy vọng Rudolf nói tiếng La tinh, hoặc tiếng Đức. “Und Sie das Buch und die Hexe gebracht, ich verstehe. Und die norwegische Wolf.”
Rudolf là một người đàn ông nhỏ bé với cái cằm dài không tương xứng và cách phát âm khó chịu. Cặp môi dày đầy đặn của gia tộc Hapsburd nổi bật trên khuôn mặt ông, mặc dù bằng cách nào đó đặc điểm này được đôi mắt lồi màu xanh nhạt và cái mũi tẹt, dày của ông ta kéo lại cân bằng. Nhiều năm sống dư dả và nhậu nhẹt liên miên đã đem lại cho ông ta một dáng người bệ vệ, nhưng cặp chân vẫn gầy như hai ống sậy. Ông ta lảo đảo đi về phía chúng tôi trên đôi giày cao gót màu đỏ được trang trí bằng những dấu hiệu đặc trưng bằng vàng.
“Thần đưa vợ mình tới, thưa bệ hạ, như người đã ra lệnh,” Matthew nói, hơi nhấn mạnh vào chữ “vợ”. Gallowglass dịch tiếng anh của Matthew sang thứ tiếng Đức hoàn mỹ, như thể chồng tôi không biết thứ ngôn ngữ này. Sau chuyến chu du với anh từ Hamburg tới Wittenberg rồi tới Praha bằng xe trượt tuyết, tôi thừa hiểu là anh biết rõ.
“Y su talento para los juegos también,” Rudolf nói, nỗ lực vô ích chuyển sang tiếng Tây Ban Nha như thể điều đó có thể thuyết phục Matthew trò chuyện trực tiếp với ông ta. Ông ta chầm chậm quan sát tôi, ánh mắt nấn ná, nghiền ngẫm những đường cong cơ thể tôi hồi lâu như ngắm một vật trưng bày. “Es una lástima que se casó en absoluto, pero aún más lamentable que ella está casada con usted.”
“Rất đáng tiếc, thưa bệ hạ,” Giọng Matthew sắc lẹm, vẫn kiên quyết dùng tiếng anh. “Nhưng thần cam đoan là chúng thần đã thực hiện nghi lễ đám cưới. Cha thần khăng khăng tiến hành nó. Cả phu nhân cũng vậy.” Điều nhấn mạnh này chỉ càng làm cho Rudolf xem xét tôi với vẻ thích thú hơn.
Gallowglass đã giải vây cho tôi bằng cách đặt phịch cuốn sách lên bàn. “Das Buch.”
Hành động đó thu hút sự chú ý của họ. Strada mở lớp vỏ bọc trong khi Hájek và Rudolf suy xét món đồ mới bổ sung thêm vào thư viện đế quốc này có thể chứng minh nó tuyệt vời đến mức nào. Tuy nhiên, khi cuốn sách hoàn toàn lộ diện trước mắt, bầu không khí trong phòng trùng xuống thất vọng.
“Trò đùa gì thế này?” Rudolf thốt ra bằng tiếng Đức.
“Thần không chắc mình hiểu ý người, thưa bệ hạ,” Matthew đáp lại. anh đợi Gallowglass dịch.
“Ý ta là ta thừa biết cuốn sách này,” Rudolf tức giận.
“Điều đó không làm thần ngạc nhiên, thưa bệ hạ, bởi người đã ban tặng nó cho John Dee – do nhầm lẫn, thần được nghe kể thế.” Matthew nghiêng đầu hành lễ.
“Bệ hạ không nhầm lẫn!” Strada nói, đẩy quyển sách đi vẻ ghê tởm.
“Tất cả chúng ta đều nhầm lẫn, Signor Strada,” Hájek nhẹ nhàng nói. “Mặc dù, tôi chắc chắn, có một lời giải thích khác cho lý do vì sao cuốn sách này quay trở lại đây. Có lẽ tiến sĩ Dee đã giải mã được những bí mật của nó.”
“Chẳng có gì ngoài những bức tranh trẻ con đó cả,” Strada cãi lại.
“Đó là lý do vì sao cuốn sách tranh này đã tìm được đường lọt vào hành lý của tiến sĩ Dee chăng? Ông hy vọng ông ta sẽ có thể hiểu được những điều ông không thể ư?” Lời lẽ của Matthew đang phản đòn thật hiệu quả, Strada mặt đỏ tía tai. “Có lẽ ông đã mượn của Dee cuốn sách với các bức vẽ về giả kim thuật lấy từ thư viện Roger Bacon, với hy vọng nó sẽ giúp ông giải mã được cuốn sách này. Viễn cảnh ấy dễ chịu hơn nhiều so với việc hình dung ông đã chơi xỏ tiến sĩ Dee tội nghiệp để lấy đi thứ yêu thích của ông ấy. Dĩ nhiên bệ hạ có thể không biết vụ việc quỷ quái như thế này.” Nụ cười của Matthew làm người ta ớn lạnh.
“Thế cuốn sách này có phải thứ duy nhất trong kho báu của ta mà ngươi nói muốn mang trở về nước anh không?” Rudolf lạnh lùng hỏi. “Hay tính tham lam của ngươi muốn nhắm đến các phòng thí nghiệm của ta?”
“Nếu người ám chỉ Edward Kelley thì nữ hoàng cần một lời cam đoan rằng hắn ta tự nguyện ở đây. không gì hơn cả,” Matthew nói dối. Sau đó, anh lái cuộc nói chuyện theo hướng ít trực diện hơn. “Người có thích những bức tranh thờ mới không, thưa bệ hạ?”
Matthew đã cho hoàng đế đủ không gian để lấy lại tinh thần – và giữ thể diện. “Tác phẩm của Bosch thật phi thường. Chú của ta sẽ là người đau buồn nhất nếu biết rằng ta đã giành được nó.” Rudolf nhìn xung quanh. “Than ôi, căn phòng này không thích hợp để trưng bày nó. Ta muốn cho đại sứ Tây Ban Nha xem nó, nhưng ở nơi này các vị có thể thấy khoảng cách không đủ xa để ngắm bức tranh một cách chuẩn nhất được. Nó là một tác phẩm mà người ta phải chầm chậm tiến đến gần, để các chi tiết hiện rõ ra một cách tự nhiên. Đến đây nào. Hãy xem nơi ta đặt nó.”
Matthew và Gallowglass tự sắp xếp để Rudolf không thể đến quá gần tôi trong khi chúng tôi đi xuyên qua cửa vào một căn phòng trông giống như nhà kho của một viện bảo tàng quá tải đồ trưng bày và thiếu nhân viên. trên giá và các tủ tài liệu chất chứa vỏ sò, sách và những hóa thạch nhiều đến mức chúng có nguy cơ đổ ụp xuống. Những bức tranh sơn dầu cỡ đại – bao gồm cả bức vẽ mới về nữ thần Venus, nó không đơn giản chỉ là quá chi tiết nữa mà phải nói là gợi dục công khai – được bày nổi bật trước những bức tượng đồng. Đây chắc hẳn là chiếc tủ lưu trữ nổi tiếng gợi tò mò của Rudolf, không gian của những điều tuyệt diệu và kỳ thú.
“Bệ hạ cần thêm không gian – hay vài mẫu vật nữa,” Matthew bình luận, tay bắt kịp một món đồ sứ khỏi rơi xuống sàn.
“Ta luôn tìm kiếm chỗ để cất giữ các báu vật mới.” một lần nữa, ánh mắt hoàng đế lại chằm chặp chiếu sang tôi. “Các vị có thể thấy ta đang cho xây dựng thêm bốn căn phòng mới để cất giữ chúng.” Ông ta chỉ ra ngoài cửa sổ về phía hai tòa tháp và một dãy nhà dài đang được nối tới khu phòng ở của hoàng đế và một tòa kiến trúc mới khác nữa ở phía đối diện. “Còn Ottavio và Tadeáš đang làm danh mục cho bộ sưu tập của ta và chỉ thị các kiến trúc sư làm những gì ta yêu cầu. Ta không muốn di chuyển mọi thứ vào khu Kunstkammer mới để rồi lại làm cho nó quá tải.”
Rudolf dẫn chúng tôi xuyên qua một tòa nhà gồm nhiều kho chứa bổ sung, cuối cùng tới một phòng trưng bày dài với các khung cửa sổ dọc hai bên tường. Nó tràn ngập ánh sáng, và sau khi trời tối sầm lại, sau đám bụi bặm ở các căn phòng trước đó, bước vào nơi này có cảm giác như được hít đầy một bầu không khí trong lành.
Nhìn vào chính giữa căn phòng khiến tôi khựng lại. Bộ tranh của Matthew được để mở trên một chiếc bàn dài phủ khăn nỉ dày màu xanh lục. Hoàng đế nói đúng: không thể nào đánh giá đầy đủ sắc màu của bức họa khi đứng gần tác phẩm này.
“Nó thật đẹp, Dona Diana.” Rudolf tranh thủ lúc tôi đang ngạc nhiên để tóm lấy bàn tay tôi. “Có thấy cảm nhận của cô thay đổi theo từng bước chân như thế nào không. Chỉ những vật tầm thường mới có thể nhìn thấy rõ ngay lập tức, vì chúng không có huyền cơ gì để hé lộ cả.”
Strada nhìn tôi với sự thù địch thấy rõ, Hájek thì với vẻ thương hại. Còn Matthew không nhìn tôi mà đang nhìn hoàng đế.
“nói đến chuyện này, bệ hạ, thần có thể xem cuốn sách của Dee được không?” Biểu cảm của Matthew chân thật, nhưng không ai trong phòng bị lừa phỉnh dù chỉ trong một thoáng. Chàng sói đang lảng vảng kiếm mồi.
“Ai biết nó ở đâu chứ?” Rudolf phải thả tay tôi ra để phẩy tay về phía những căn phòng chúng tôi vừa bỏ lại phía sau.
“Nếu một cuốn sách quý giá nhường ấy lại không thể tìm thấy được khi hoàng đế yêu cầu, chắc hẳn Signor Strada đã lơ là bổn phận của mình rồi.” Matthew nhẹ nhàng nói.
“Ottavio hiện rất bận rộn, với những chuyện quan trọng!” Rudolf trừng mắt nhìn Matthew. “Còn ta thì không tin tưởng tiến sĩ Dee. Nữ hoàng của ngươi nên đề phòng những lời hứa hẹn dối trá của lão.”
“Nhưng người lại tin Kelley. Có lẽ ông ta biết nó ở đâu thì sao?”
Đến đây thì hoàng đế rõ ràng không thoải mái. “Ta không muốn Edward bị quấy rầy. Ông ta đang ở giai đoạn nhạy cảm trong công việc giả kim thuật.”
“Praha có vô vàn bùa phép, và Diana được ủy thác đến mua vài món hàng thủy tinh liên quan tới việc thực hành thuật giả kim cho nữ bá tước Pembroke. Chúng thần sẽ tự làm mình bận rộn với nhiệm vụ đó tới khi nào ngài Edward có thể tiếp khách. Có lẽ đến lúc đó Signor Strada sẽ tìm ra cuốn sách thất lạc của người.”
“Nữ bá tước Pembroke này là em gái người hùng của nữ hoàng, ngài Philip Sidney phải không nhỉ?” Rudolf hỏi, sự hứng thú của ông ta đã được chạm trúng. Khi Matthew mở miệng định trả lời thì Rudolf giơ tay lên ngăn lại. “Đó là việc của Dona Diana. Chúng ta sẽ để cô ấy trả lời.”
“Đúng vậy, thưa bệ hạ,” tôi đáp bằng tiếng Tây Ban Nha. Phát âm của tôi quá tệ, hy vọng chuyện đó sẽ đánh tan hứng thú của ông ta.
“thật quyến rũ,” Rudolf lẩm bẩm. Chết tiệt. “Thế thì tốt rồi, Dona Diana phải đến thăm xưởng làm việc của ta. Ta thích làm thỏa lòng mong ước của một quý bà.”
Nhưng không rõ ông ta muốn nói đến quý bà nào.
“Về phần Kelley và cuốn sách, chúng ta sẽ xem. Chúng ta sẽ xem.” Rudolf quay trở về với bộ tranh. “Ta sẽ quan sát, im lặng, và lắng nghe. không phải câu tục ngữ đó sao?