Chương 67: Chương 67

HÀNH TRÌNH TRUY QUÉT. (3)

(Từ địa bàn giáp Siemreap đến thượng nguồn suối hai mùa Stoeng Sreng).

Gần sáng, tôi gọi sáu anh em lính cũ lại, những con người dù còn rất trẻ như tôi, cũng đã dạn dày chiến trường qua một chặng đường chiến dịch, để nêu ra những tình huống xấu nhất, buộc phải nổ súng đơn độc, không có sự chi viện của lực lượng bộ binh, động viên tinh thần anh em vững vàng trước thử thách khó khăn, vì đối với anh em lính mới bổ sung vào đơn vị, đây là lần thứ hai nổ súng đánh địch, sức mạnh và tinh thần của họ dựa vào những lính cũ.

Tan sương sớm, khi đã rõ mặt người, thấy bọn địch ngủ chưa dậy, chỉ vài tên lính gác hay là chúng thức dậy sớm, đi lòng vòng nhà kho chỗ hai con voi, sửa sang lại cái gì trên lưng voi.

Thời cơ nổ súng chăng?... Anh em lính cũ cũng đoán được suy nghĩ boăn khoăn của tôi, họ chỉ tay vào địch và ý muốn nổ súng. Cân nhắc và đánh giá tình huống, thấy chưa phải là tình huống bắt buộc và thuận lợi để nổ súng, (vì nhiều anh em không đọc bức điện của e95), tôi làm hiệu cứ bình tĩnh chờ đợi.

Chúng loay hoay nấu cơm ở đầu nhà kho, cũng có thằng đi múc nước, kiếm củi, nhóm lửa. Một số khác lom khom trong kho không hiểu làm gì, chỉ nghe tiếng chúng gõ ở phía trong. Lực lượng chúng đang tháo dỡ cái gì đó mang ra chỗ con voi và đặt ở đó.

Chúng dùng thịt hộp… xèo… xèo… khói bốc lên…

Chúng ăn cơm, chia thành ba nhóm, chính xác đếm được mười bảy thằng (có hai thằng khi chết nhìn mặt khoảng mười ba – mười bốn tuổi), chúng đựng cơm trong một khay và ăn bốc truyền thống, có thằng đứng, có thằng ngồi, có thằng vừa ăn vừa đi nhìn trời… Tất cả đều không mang súng bên cạnh.

Anh Hoàng hai lần nhìn sang tôi và chờ đợi… men theo tảng đá, tôi lại vị trí anh Hoàng làm hiệu tấn công, truyền khẩu lệnh tấn công theo phương án:

Khi tôi và anh Hoàng bắn hai trái B40 đầu tiên (đội hình chỉ có hai khẩu B40, mỗi khẩu có bốn trái đạn), đội hình bên trái (A. Hoàng) sẽ bắn yểm trợ, đội hình bên phải nhanh chóng chớp thời cơ xông lên, vừa cơ động vừa bắn vào đội hình địch với một thời gian nhanh, không cho chúng kịp trở tay (đây là lối đánh truyền thống của trinh sát).

Nhìn liếc qua thấy tôi đặt khẩu B40 lên vai, và thuận lợi về hướng bắn nên anh Hoàng bắn trước tôi vài giây, tôi nhắm mục tiêu và bóp cò… hai quả nổ ngay giữa đội hình địch, tôi đưa lại khẩu B40 cho một anh chiến sĩ, chụp nhanh khẩu AK và phát lệnh xung phong, dưới sự chi viện tối đa phía trái của anh Hoàng, bảy anh em lợi dụng địa hình và nhanh chóng áp sát địch… phía trái anh Hoàng nã tiếp một trái B40 nữa, khi thấy cánh phải chỉ còn cách địch 10 m. Địch không kịp phản ứng, không có loạt đạn nào bắn trả.

Toàn bộ đội hình ta xông lên chiếm trận địa, nhanh chóng “dọn sạch” chiến trường, ta thu được mười súng và diệt mười bốn tên (không biết ba thằng nữa nó chạy hướng nào mà nhanh thế!). Đang loay hoay thu súng và kiểm tra xác địch… một ánh chớp lóe lên… kèm theo một tiếng nổ… tưởng là địch đánh tập hậu anh em chỉ kịp nằm xuống… ánh chớp và tiếng nổ thứ hai… lúc này anh em mới phát hiện là từ trong kho… biết là kho đạn bị kích nổ… kho bắt đầu bốc cháy… anh em nhanh chóng chạy thoát ra ngoài rừng (vẫn bị thương nhẹ hai người).

Có lẽ do tiếng nổ lớn và liên tục nên d1 điện hỏi, nhưng vì thời tiết xấu, máy liên lạc không tốt, phải mất cả giờ d1 mới nhận được thông tin đầy đủ về tình hình. Lúc này chúng tôi còn cách đội hình của c2 chừng 4 km, và phải gần hai giờ sau hai cánh quân mới gặp nhau. (Nghe súng nổ, anh em c2 tưởng chúng tôi bị chặn đánh, vận động khẩn trương bất chấp địa hình. Khi gặp nhau, nhìn lại quần áo anh em bị rách tả tơi do vướng mắc vào các vật cản. Mặt mày anh nào cũng đầy bùn đất, do mưa trượt chân ngã khi leo đồi.)

Đội hình được lệnh quay về Anlongveng. Khoảng bảy giờ tối chúng tôi mới tiếp cận đường chính vào nông trường, anh em trinh sát d1 phải dùng ánh đèn pin để làm hiệu, và chúng tôi đáp lại bằng tiếng kêu như con tắc kè.

P/ S: Sau nhiều tháng không tác chiến, trận đánh của d1 e95 được báo cáo thành tích tại Đại hội thi đua quyết thắng Sư đoàn 307 lần thứ nhất (cuối năm 1979). Trận đánh tiêu diệt địch của trinh sát Sư đoàn, cũng được báo cáo tại Đại hội, được coi là trận đánh mang tính điển hình cho các đơn vị trinh sát trong toàn Sư đoàn,. Sau năm 1979, địch dùng chiến tranh du kích quấy phá ta, nên nhiều khi Trinh sát cũng phải tác chiến độc lập ở cấp B, nhất là khi đánh vào các toán nhỏ lẻ của chúng dọc theo biên giới Thái Lan.