THẦM LẶNG (tt)
Qua quan sát, lực lượng địch cả trăm tên chia thành hai lực lượng, một lực lượng đang tìm cách bám vào sườn đông 428. Căn cứ 428 ba hướng là những bình độ dày, vách đứng, rất khó đi. Khu vực duy nhất để có thể tiếp cận là sườn phía đông, có phần thoải hơn. Lực lượng còn lại ít hơn ở 428, chúng di chuyển về hướng d bộ d2 (do c10 d3 đang chốt giữ). Ban đầu d trưởng d2 có ý định nổ súng luôn để tiêu diệt lực lượng lớn, nhưng thấy địa hình khá hiểm trở, khó có thể đánh thiệt hại chúng, nên ta cũng tổ chức bám và phục lại. Dự định cho anh em ở 428 rút ra ngoài chốt để tạo thế đánh phản công địch phải hủy bỏ, vì thấy rằng nếu chúng tập kích bằng cối vào khu vực, thì anh em không có công sự dễ bị thương vong cao. Một tổ trinh sát e95 bám men theo bình độ phía tây để bắt liên lạc với chốt 428, và truyền đạt mệnh lệnh của d trưởng về ý đồ tác chiến.
Lực lượng ta tập trung triển khai sau lưng địch khoảng 100 m. Đồng thời điện báo cho d bộ ở nhà đưa lực lượng bớt ra ngoài để ngăn chặn địch tập kích (nhưng sau trận đánh ta thấy địch chỉ dùng lực lượng này phục kích ta ở vòng ngoài, chặn đường chi viện của c10 cho 428, khi chúng nổ súng hướng 428). Lực lượng cối 82 quay ra ngoài chuẩn bị trong cự li < 100 m để bảo vệ d bộ. Cối 120 chi viện cho 428 vào khu vực địch đang chuẩn bị tấn công.
Tình huống xảy ra không như ta dự đoán. Địch dùng cối 82 từ bên kia biên giới Thái bắn cấp tập vào d bộ và 428 với mục đích ta không thể chi viện lực lượng vì cả hai vị trí đều bị tấn công. Chúng bắn liên tục trong vòng hai mươi phút với cường độ cao, do địch bắn từ bên kia biên giới ta không quan sát được nên cối ta không phản ứng gì. Dứt đợt cối địch dùng mìn quét (không hiểu có phải loại như DH của ta không) phá toàn bộ dãy hàng rào sườn đông của chốt 428 và tấn công. Do biết được ý đồ của chúng nên ta dồn lực lượng và hỏa lực về hướng tấn công. Bị chặn ngay từ bước đầu, chúng dùng cối chi viện lần hai khoảng hơn mười phút và tranh thủ bám theo hàng rào để vào phía trong chốt 428. Do không lường được tình huống này, một đoạn hào chừng 30 m của ta bị địch đột nhập và phân đội trấn giữ khu vực này hi sinh hết ba và bị thương một. Không thể chậm trễ d2 cho cối 120 bắn mấy quả vào đội hình địch, và sau đó là cối 82, quả đầu tiên do sai lệch nổ gần quá ta bị thương hết một chiến sĩ c5. Sau khi điều chỉnh, cối ta rơi vào đội hình địch và gây cho chúng sự hỗn loạn về đội hình. Vốn lì lợm, chúng vẫn tổ chức tấn công chốt và đưa đồng đội ra khỏi trận địa.
Thấy tình thế không thuận lợi, d2 buộc phải cho đội hình nổ súng từ phía sau, không chờ chặn đánh đường rút của chúng. Đội hình ta từ hai phía phản công địch. Nhóm địch bốn, năm tên làm công tác tải thương về phía sau bị B3 c5 tấn công tiêu diệt đầu tiên. (Có một tên chân bị gãy không hiểu là hắn tự sát hay bị đạn kích nổ, chết không toàn thây, khi hướng này ta không dùng B40). Do lực lượng chúng khu vực này cũng khá đông nên chúng kiên quyết đánh trả ta. D2 điện trực tiếp trên bộ đàm chỉ thị cho lực lượng ở chốt chỉ đánh trả chúng phía trong hàng rào, không bắn đạn vượt quá hàng rào có thể gây thương vong cho ta. Cả hai hướng ta áp sát địch và đánh trả dồn chúng về hướng bắc 428 là vùng trũng của con suối nhỏ. Cối 82 từ nhà bắn chi viện lên khoảng hai quả và cối 60 từ chốt 428 bắn ra chận vùng thung lũng. Bằng kinh nghiệm của d trưởng d2 không nên dồn địch vào thung lũng (sau nhiều năm ở chiến trường tôi mới cảm nhận điều này là đúng, chứ lúc ấy thì chỉ biết nghe theo), vì khi cùng đường chúng đánh trả đến đường liều mạng, không có lợi cho đội hình lúc đó. D2 điều một b của c5 và trinh sát hỗn hợp, vòng sâu lên hướng bắc chận đường rút của chúng. (D trưởng bảo là đánh nơi chúng không ngờ là ta sẽ phục! Điều này thì…) Từ trong đánh ra và ngoài đánh vô từ hai hướng địch không trở tay kịp, lực lượng chiếm hào đầu tiên của ta bị diệt khi chưa kịp rút (bị lựu đạn là chính). Kế hoạch cố đánh giải vây nhóm phía trong không thành công nên chúng rút lui. Không biết thế nào, mà khi đội hình chính của ta phía ngoài áp sát vào hàng rào, thì cối chúng lại bắn vào trận địa ta (ta chưa kịp thu súng mấy thằng chết tại chỗ). Đạn chúng cơ bản rơi bên ngoài chốt là nhiều. Do bị lộ nên toàn bộ đội hình ta rút vào chốt trú ẩn dưới hầm, không còn lực lượng nào bên ngoài. Cối địch bắn như mưa vào trong và ngoài chốt, khu vực nuôi quân bị cháy hết một căn hầm. Chúng bắn liên tục trong khoảng mười phút thì ngưng. Nhanh chóng chiếm lĩnh khu vực trảng trống phía bên kia thung lũng của con suối, đội hình chừng gần ba mươi người của ta dưới sự chỉ huy của c trưởng c5 tổ chức phục kích. Khoảng gần nửa tiếng thì chúng xuất hiện đang cố gắng vượt qua bãi tráng để về bên kia biên giới. Toàn đội hình dàn hàng ngang chờ lệnh.
Lực lượng địch không đông lắm chỉ bằng lực lượng ta. Chúng dừng lại tại một khu rừng khuất cách ta chừng 50 m, có vẻ chờ lực lượng khác. Bỗng nhiên có tiếng súng nổ hai viên từ phía sau đội hình ta. Bọn chúng bắt đầu cắt rừng về hướng tiếng súng nổ (sau này ta mới biết là tiếng bắn kêu rút). C trưởng c5 khẩn trương cho bắn hai quả B40 làm hiệu lệnh nổ súng, và sau đó là hỏa lực cá nhân. Do đường đi của chúng là đường lên đồi nên tốc độ chậm cũng như luôn bị trượt té nên hỏa lực ta bắn rất hiệu quả. Địch cũng bắn lại nhưng do địa hình nên không phát huy được. Hầu như sáu tên địch chết nơi này, đều súng một nơi, người một nẻo.
Lực lượng chốt 428 cơ động ra chi viện khi ta đã làm chủ chiến trường. Ta thu mười hai súng (không rõ sao súng nhiều hơn người trong đó có một AT).
Kết quả sau trận đánh: Ta diệt mười bốn tên thu mười bảy súng và rất nhiều mìn KP2. Phía ta hi sinh ba bị thương năm.
Thu dọn chiến trường xong thì trời đã gần chiều tối, bộ phận tác chiến buộc phải đưa liệt sĩ và thương binh về d bộ d2. Trên đường về, một thương binh là tân binh quê Phù Cát - Bình Định, bị miếng cối vào ruột rất nặng nên hi sinh giữa đường.
Cuộc đời người lính, phải chiến đấu giữa cái sống và cái chết, giữa niềm vinh quang và gian khó. Những tiếng cối nổ ùng oàng, tiếng nổ đanh như thép của các loại mìn, và cả tiếng bắn kêu hỗ trợ khẩn thiết của đồng đội. Không hẳn như vậy, và cũng không phải chỉ có thế. Người lính trước hết là một con người, có một thân phận và cũng có một tình yêu… có thể nó là cung bậc của sự thăng hoa, hay chỉ là sự hoang tưởng, và nhiều khi là cả một thời để hối tiếc, và cũng để hối tiếc mà thôi.
Tôi đã rơi vào trương hợp như vậy.
Giữa những ngày khốc liệt ở 428 cùng anh em d2 e95…
“… Cùng một số bạn bè ngày xưa của lớp mình, về đưa tang bạn Đức đến nơi an nghỉ cuối cùng… Cả bọn mới biết bạn đã nhập ngũ mấy năm, và đang chiến đấu ở một chiến trường đầy khắc nghiệt và gian khổ. Mình vô tâm quá…
Khi chia tay nhau sau kì thi nghiệt ngã... Bờ sông Hàn Đà Nẵng một đêm hè… Những quán cơm bình dân dọc đường Ông Ích Khiêm… đầu cầu Trịnh Minh Thế, khi những bàn tay rời nhau sau mấy ngày thi, để từ đây mỗi con người là một số phận… Thời gian năm năm trôi qua sao mà nhanh thế…
Mình cũng không đủ điều kiện để vào Đại học, cũng phải lao động mọi thứ để nuôi sống mình và giúp phần nào cho gia đình… Những đêm trằn trọc suy nghĩ về cuộc đời… trong đó có hơn một nửa là nghĩ về một người… (mà không ngờ đã là một anh bộ đội)… Phù Mỹ chỉ cách Quy Nhơn chưa đầy 60 km, sao thấy xa quá… nhiều lần đã bạo gan xin mẹ đi chơi… nhưng cuối cùng phải hoãn lại, vì đâu biết chính xác địa chỉ…
Những năm ở Trung học Đệ nhất cấp, chỉ là lòng ngưỡng mộ trí thông minh, khi giải những bài Đại số khó cho lớp… Những phương pháp giải các bài tập Ngữ pháp về câu bị động, những mẹo về cách chia thì trong tiếng Anh.
Rồi năm cuối Trung học Đệ nhị cấp… một người thanh niên mạnh mẽ cá tính và hết lòng với bạn bè.
Mỗi buổi sáng…ngồi ở quán ăn trên đường Võ Tánh… chỉ có một điều duy nhất: nhìn thấy bước chân thoăn thoắt của một người con trai cùng lớp, trên đường vội vã đến trường ….
Cả nhóm xuống nhà bạn, nhưng nghe đâu gia đình đã vào Nam hết rồi… lại một dịp may hiếm có vuột mất. Mẹ Đức bảo: cách đây không lâu, đài truyền thanh của xã còn đọc thư của bạn gửi về cho gia đình. Cả bọn lên tìm, và may quá còn sót lại mấy lá, và theo địa chỉ viết thư cho bạn đây.
Cũng nét chữ đẹp như hoa ấy, giọng văn cục mịch, đôi chỗ sang sảng như văn bình luận… chỉ có điều đã là một người lớn… có nói hơi nhiều đến hiện thực khách quan… đâu còn con người của ngày xưa nữa… còn gì sống động hơn là những cánh thư của lính gửi về cho gia đình.
Nước mắt mình không thể cầm được trên những trang thư của bạn. Ngả rẽ cuộc đời sao nhiều điều bất ngờ quá…
Trên đường trở lại Quy Nhơn… khi qua những nẻo đường xứ sở... trí thông minh, lòng kiên trì, biết sống vì mọi người, và coi mọi sự khó khăn, thậm chí cái chết như một làn sương mỏng…
Dọc đường, những em bé đen thủi đen thui, quần áo cái còn cái mất… chạy tung tăng trên những bãi cát trắng tinh, trong buổi chiều nắng chói chang của vùng biển…
Chín năm về trước, năm 1971, cũng có một đứa con sinh ra và lớn lên ở mảnh đất nắng và gió này, ngơ ngác bước vào ngôi trường xa lạ… để sáu năm sau đó ra đi… và đi về một nơi... có tiếng súng đang nổ vang.
Không biết rằng người ấy… giữa bão táp của chiến tranh… mang trong mình mọi sự cứng rắn mãnh liệt kia… có ẩn chứa phía sau là một trái tim còn rực lửa hay không? Có còn cảm nhận được rằng… nơi mái trường xưa… cũng có một người mong ngóng, những bước chân trở về… dù rằng không ai biết có một nỗi niềm như thế…”
Tôi lẩn thẩn hết mấy ngày… như người không hồn.
À ra thế! Trong lớp ngày xưa sao mãi nhìn mình. Nhà có xe máy… luôn đi chơi với bạn bè toàn bằng xe đạp sườn ngang, không có baga phía sau… ngồi phía trước bắt mình chở gần đứt hơi… khi lên dốc mộ thi sĩ Hàn… vẫn… phình… phường…
Mái tóc ngắn thơm mùi bồ kết, tung bay trước gió biển Quy Nhơn… vùng da trắng nõn nà sau gáy… cú ngoảnh mặt vô tình mỗi khi nói chuyện, chạm vào mặt mình với chiếc áo cổ tròn hơi rộng…
Tất cả đã được lập trình và có ý đồ chiến thuật hẳn hoi…
Giờ đây… nơi cao điểm 428… cũng chỉ là sự nuối tiếc.
“Ta trả lại và cảm ơn sự chia tay thầm lặng,
Lá vàng thu, tiếc nuối giữa tay người…”