Nam Hỏa đang ẩn mình ngủ đông được nửa tháng rồi, Nam Lý đã bắt đầu nóng bức, nhưng vùng cao nguyên hãy còn giá rét, trong thời gian này ở trung thổ đã liên tiếp xảy ra ba chuyện đại sự.
Đại quân của dân tộc Hồi Hột đã đánh xuyên cao nguyên biên giới phía bắc, quân địch đã kéo đến sát thành (tình thế vô cùng nguy cấp).Ngựa quân Thổ Phiên đều lui vào Thánh thành, viện sự giúp đỡ của bức tường thành kiên cố vững chắc để chống lại bọn hung dữ, hai bên giao chiến, giằng co chưa xong;
Người Yến cuối cùng chính thức xuất thủ. Bất chấp thời tiết giá lạnh, đại quân từ phía tây tiến lên cao nguyên, chỉ cần là người có hiểu biết sơ sơ về tình thế trước mắt ắt đều có thể phán đoán ra mục đích của người Yến, nhưng dân tộc Hồi Hột dù muốn lui binh cũng đâu có dễ dàng đến thế, nhìn thì có vẻ như họ đang bao vây tấn công, nhưng nếu nhìn ở một góc độ khác, lại chẳng phải là bị người Thổ Phiên kéo giữ ở Thánh thành sao, một ngày vội vã lui binh, không cần phải nghĩ, sau lưng tất nhiên sẽ bị giặc truy sát đến cùng, không thể tránh được một sự tổn thất lớn, tình thế như vậy chỉ e là so với kế sách của quân Yến trong ngoài giáp công(đánh gọng kìm, đánh từ hai mặt) cũng không tốt hơn là bao nhiêu.
Bởi vậy, đánh giá sức mạnh của Hồi Hột và nước Yến hiện nay, thì chỉ gói gọn trong hai chữ: thời gian.
Lưỡng quân thời gian đều gấp gáp. Nếu như Yến quân có thể đuổi người Hồi Hột đánh chiếm được Nhân Khách trước khi đến nơi, thì sự rút lui của người Hồi Hột không cần thiết nữa; nhưng nếu ngược lại , quân viễn chinh của Hồi Hột đoạt lấy Thánh thành trước thì, liền có thể đảo khách thành chủ( từ bị động chuyển sang chủ động), không có nguy cơ thất bại nữa, và còn dựa vào tường thành kiên cố, chờ quân địch mệt mỏi đón đánh Yến quân. Có điều cứ nhìn mà xem, người Hồi Hột lần này dữ nhiều lành ít, cảnh vệ của Thánh thành còn xa mới so được với sự nghiêm mật chặt chẽ của những nơi khác,sự chống lại của giặc ngoại xâm cũng đặc biệt hung ác ngoan cường, dự định tốc chiến tốc thắng của Đại Khả Hãn e rằng hỏng rồi.
Về chuyện thứ ba, thì có liên quan mật thiết đến Nam Hỏa. Nam Lý cuối cùng đã không thể chống đỡ nổi, thủ đô thành Phượng Hoàng thất thủ, toàn bộ triều đình văn võ bá quan theo tiểu Hoàng đế Phúc Nguyên chạy trốn.
Chỉ mất quãng thời gian hơn hai tháng, Yến quân đã từ Chiết Kiều quan đánh sát vào thành Phượng Hoàng, tốc độ không thể gọi là chậm được. Tuy nhiên, trong những lúc gian khổ thì chỉ có bản thân người Yến mới hiểu rõ, sự chống cự của người Nam Lý dữ dội hơn sự tưởng tượng của họ rất nhiều, tốc độ tiến quân của Yến quân tuy rằng không bị ảnh hưởng, nhưng thương vong của họ vượt quá dự tính nhiều lắm.
Có thể nói rằng, sự “thần tốc” của Yến quân ở Nam Lý, là do sinh mệnh của của binh sĩ mà đổi lấy. Đối với việc Cảnh Thái nổi trận lôi đình, chính là do Yến quân lũ lượt kéo đến tàn sát điên cuồng vùng đánh chiếm được, chốn nào đại quân đi qua thây chết đầy đường, tình cảnh bi thảm không lời nào tả xiết, người Hán thủ đoạn tàn nhẫn, hơn hẳn giặc ngoại xâm…
Quân sĩ Hồi Hột tiến đến Thánh thành, Yến quân từ phía đông giết đến vùng cao nguyên, Yến quân tàn sát Nam Lý để đánh chiếm thành Phượng Hoàng, trong chuyện thứ ba này, cái việc cuối cùng có ảnh hưởng tới cục diện rối ren là nhỏ nhất, mà lại mang tính quyết định. Phải đối mặt với Yến quân hùng mạnh, Nam Lý thất bại thảm hại âu cũng là chuyện thường tình, nhưng thành Phượng Hoàng thất thủ lại chứng tỏ rõ ràng: vùng Trung Nguyên duy trì được cục diện cân bằng hơn một trăm năm qua, đã hoàn toàn bị phá vỡ rồi.
Chỉ nhìn từ bề ngoài, thì đất nước bị rơi vào tay giặc chính là dấu hiệu quốc gia diệt vong, thiên hạ này sẽ không còn ngũ quốc phân tranh nữa.
Đương nhiên, cái gọi là “ diệt vong” chỉ là cách nói chốn quan trường, Nam Lý vẫn còn có bách tính, có quân sĩ, có tướng quân, có Vương gia, có Hoàng đế, cuộc chiến này hãy còn chưa xong được. Có vài vị đại thần phụ chính đề nghị sau này bố cáo cả nước, Nam Lý sẽ không xây dựng kinh đô mới khác, từ Phúc nguyên vạn tuế về sau, tất cả quân dân Nam Lý thậm chí cả hậu duệ đời sau, mãi mãi tôn kính thành Phượng Hoang là đô thành! Điều đó chính là nói rằng, không đầu hàng, không cùng tồn tại, không thỏa hiệp, nếu bọn chúng còn muốn tiến đánh trận nữa, cho dù Nam Lý chỉ còn sót lại một người cuối cùng, hướng đi, ánh mắt còn tồn tại, thì mãi mãi đều là Phượng Hoàng thành.
Thánh chỉ này đến thánh chỉ khác, từ tiểu Hoàng đế truyền bá đi khắp nơi, báo hiệu cho các trang nghĩa dũng, tập hợp quân đội, nhân dân Nam Lý không thể từ bỏ việc phản kháng, cũng như sự tàn sát của Yến quân cũng chẳng thể dừng lại vậy.
Sáu mươi làm ngàn Nam Hỏa phụng mệnh tập kết, trải qua một khoảng thời gian dưỡng sức, từ thể lực cho tới tinh thần của binh sĩ đều hồi phục ở trạng thái tốt nhất, mọi người biết rằng sẽ ra trận. Đến nay, đám binh sĩ hung bạo này đã được khói lửa chiến tranh tôi luyện, đã vào sinh ra tử nhiều lần, nói đã thay da đổi thịt thì có lẽ hơi khoa trương, nhưng người nào cũng hung ác là không thể sai được, không có ai sợ chiến trận, lúc nghe được hiệu lệnh tập kết mọi người đều vô cùng kích động.
Tống Dương dẫn đầu các tướng lĩnh đến trước quân sĩ, bước lên đài cao được lập tạm thời, câu nói đầu tiên đã khiến cho toàn quân tướng sĩ vô cùng hoảng sợ: “Hơn hai tháng trước Yến quân xâm chiếm Nam Lý, chín ngày trước Phượng Hoàng thành đã thất thủ. Từ Chiết Kiều quan đến Phượng Hoàng thành, Nam Lý có bảy thành trì dân chúng bị thảm sát, sau khi Kinh Thành(thủ đô) bị Yến tặc vơ vét hết sạch, một ngọn lửa lớn đã thiêu rụi thành tro tàn.”
Trong quân ồn ào, không thể kiềm chế được…Nam Hỏa đang chiến đấu ở cao nguyên xa xôi, quân đội phong bế, quân sĩ bình thường không có kênh tin tức gì, hoàn toàn không biết trong nước đang xảy ra cuộc chiến mới. Nhưng ngay từ hai tháng trước thì đã bắt đầu chiến tranh rồi mà Nam Hỏa trong thời gian này lại thoải mái tu dưỡng sao? Binh sĩ nghĩ không ra, đến nỗi tỏ ra căm phẫn.
Tống Dương và các tướng lính phía sau vẫn chưa áp chế được sự ồn ào náo động của các huynh đệ binh sĩ, chỉ là đứng ở phía trước yên lặng chờ đợi, đến khi trong quân dần dần bình tĩnh trở lại, Tống Dương mới lại mở miệng, thanh âm vang dội nhưng khẩu khí bình tĩnh: “ Một người dũng cảm mạnh mẽ chân chính, là vinh nhục cùng với gia quốc(nước nhà), để giết địch có phải tắm máu nơi chiến trường, khảng khái bước đến cái chết, được hậu duệ ngưỡng mộ tôn sùng, tử tôn ghi lòng tạc dạ, nếu như quay lại gia quốc, mọi người ai cũng đều là chiến sĩ quả cảm, chuyện này tuyệt đối không sai. Nhưng ta không không đưa các ngươi quay về, lỗi là ở ta.”
“ Không hề là sự tham sống sợ chết, chẳng phải là nhẫn nhịn cầu toàn, chỉ bởi vì Nam Lý cho tới nay, ngoài binh sĩ quả cảm ra còn cần một loại quân hung ácà oan hồn chưa tan... ác quỷ.”
Hai từ cuối cùng, Tống Dương nhấn mạnh giọng nói.
“Ác quỷ thật sự, do ác khí biến hóa mà thành, từ cái chết mà sống lại , và lại sống đến khi chết chỉ vì bốn chữ: báo thù lấy mạng! Dũng sĩ chết có ý nghĩa, thi thể xuống mồ hồn phách luân hồi vĩnh viễn được bình yên; ác quỷ du tẩu xuống thế gian, ngày đêm bị thù hận giày vò, nhưng dẫu cho tình thế có như vậy, cũng phải đem nỗi đâu khổ này trả lại gấp vạn lần hơn nữa cho kẻ địch.”
“Dũng sĩ hoàn thành tâm nguyện, khi chết đi là xong rồi; ác quỷ thì khó mà chịu đựng, du tẩu ở âm dương, mãi mãi không thể đầu thai, ác khí trên mình đã là cơn ác mộng của địch thủ, lại càng là nỗi thống khổ của bản thân, mãi cho đến khi một ngày kia, đại thù được báo ác khí tiêu tan, ác quỷ cũng hồn bay phách lạc hóa thành làn khói xanh.”
“ Muốn chết thì dễ dàng, muốn báo thù mới thật sự là việc khó. Từ Khổ Thủy(nước đắng)đến Chiết Kiều, Nam Lý cửu châu binh mã không ít, nhưng luận bàn đến hai chữ tinh nhuệ, thì có ai có thể giành thắng lợi trước Nam Hỏa? Đây là cái khó nhất, khổ nhất, cũng là cái tàn nhẫn nhất của ác quỷ khát máu, ngoài chúng ta ra thì còn ai có thể làm, ngoài chúng ta còn ai có tư cách làm.”
“ Nam Hỏa tu sửa phục hồi, chỉ bởi cuối cùng muốn có người lưu lại, vì Nam Lý báo thù, trở thành loại quân binh ác quỷ. Bang quốc thất thủ, Phượng Hoàng gặp nạn, từ thời khắc này, chính là lúc này đây, Tống Dương và các chư vị cùng nhau, và cùng với Nam Hỏa…lập tức thành ma quỷ!”
Tống Dương giương đao, chỉ xa về phía Đông: “Từ nay vể sau thay da đổi thịt, Nam Hỏa không ngừng tiếp diễn cái ác, đến Đại Yến ác quỷ cũng chỉ làm một chuyện: đem Yến quân, Yến dân chết chìm trong máu của chính chúng.”
Sau cùng Tống Dương lại đưa một ngón tay run run lên, mở ra một bức thánh chỉ, cao giọng quát lên: “ Phụng chỉ, Nam Hỏa tất cả lập tức xuất chinh, phía Đông tiến vào đất Yến, người Yến khiến Nam Lý ta cực khổ, sẽ hoàn trả lại mười lần, trăm lần, vạn lần!”
Không cần cố gắng gây cảm động lòng người như thế nào, chỉ cần nguyên nhân rõ ràng là đủ rồi. Tuyên chỉ cuối cùng cũng là đặc biệt quan trọng, không quay vể cứu quốc đối với binh sĩ đến từ Nam Lý nói chung là một chuyện khó chịu, tuy nhiên nếu như đây là ý chỉ của Hoàng Đế , thì mọi người đã có thể thoải mái, trong lòng không còn cảm giác tiếc nuối, chỉ còn lại mối thù hận tràn đầy.
Từ bỏ Thổ Phiên, đột nhiên chuyển hướng tấn công Đại Yến,nếu là lúc trước sẽ ảnh hưởng đến tinh thần của binh sĩ, dẫu sao thì nước Yến hùng mạnh, chẳng ai muốn tự tìm cái chết, nhưng hiện nay đối với tướng sĩ Nam Hỏa mà nói cũng đã là chuyện đương nhiên rồi.
Thời điểm Nam Hỏa bắt đầu hành động, Hoa Nghiêm đang đứng trên tháp canh Bạch Cổ Lầu, lặng lẽ ngắm nhìn ra xa mười vạn hồng hoang. Quốc nạn ập xuống, các bộ võ trang đều phải chiêu mộ binh lính,trạm gác ở vùng biên giới hoang dã phía nam cũng không ngoại lệ, rút lui khỏi nơi này,các huynh đệ binh sĩ đang thu dọn ở bên dưới, sắp phải khởi hành theo quân lệnh tụ họp ở địa điểm chỉ định rồi.
Canh phòng đồn gác đã hơn mười năm rồi, nơi này cũng coi như là trở thành quê hương thứ hai của Hoa Nghiêm rồi, bình thường ngày nào cũng sống ở chỗ này thì không cảm thấy thế nào, bây giờ đột nhiên phải đi, thì lại có cảm giác lưu luyến… Nhưng mà nhất định phải đi, vìquê nhà thật sự của Hoa Nghiêm đã bị hủy hoại dưới gót sắt của người Yến, dù cho không có quân lệnh, bọn họ sớm muộn cũng sẽ phải dấn thân/lao vào chiến trường, để cho người Yến xem thử con dao của Nam Lý có màu sắc gì.
Không bao lâu sau, quân sỹ cấp dưới đã trình báo, mọi người đều đã chuẩn bị ổn thỏa, có thể xuất phát rồi, Hoa Nghiêm nhẹ gật đầu đang định đi, đột nhiên lại nhớ ra một chuyện, chỉ về chiếc Long kỳ Nam Lý cắm ở trên chòi gác: “Cái này, có cần cầm đi không?”
Quân đội mang theo lá cờ đi là chuyện có ý nghĩa kinh thiên động địa, có thể đây là lý giới của Nam Lý, không có cờ dường như cũng không thích hợp lắm… Quân sĩ vừa gia nhập đội không lâu, là người mới đến, chuyện gì cũng đều không hiểu, nháy mắt một cái: “Vâng, có cần mang đi không?”
Hoa Nghiêm vui vẻ: “Hỏi ai đó!”. Binh sĩ không chú ý, vội vã lắc đầu, quay lại không ngờ là Hoa tướng quân hỏi, cầm lấy lá cờ rồi, hành quân đi đường hay chiến trường, có lá cờ thì trong lòng thoải mái hơn một chút.
Binh sĩ tuân mệnh đi rút lá cờ, tướng quân trực tiếp xuống lầu kiểm tra đội ngũ, không ngờ một lát sau binh sĩ đó hai tay trống không đã chạy xuống rồi.
Hoa Nghiêm mặt mày nhăn nhó, nhưng binh sĩ lại không đợi đến khi chàng hỏi, đã nói liên tục không ngừng: “Khởi bẩm tướng quân, có người, một nhóm người từ trong rừng chạy ra.”
Hoa Nghiêm lập tức lại leo lên trạm gác, tay đè lên lên đống tên nhìn về phía xa, rất nhanh liền nhìn rõ ràng xuất hiện một nhóm người từ trong rừng sâu hoang vu, dẫn đầu là một người hạc phát đồng nhan (già nhưng vẫn tráng kiện), trong tiết trời nóng chết người mà hãy còn mặc áo lông dày xù... chính là Hổ Phách trước đây đã từng gặp mặt .
Hơi có chút bất ngờ là, lần này bên cạnh Hổ Phách lại có một đám người Hán, nam nữ đều có cả, lại có một em bé và một người trên mặt tô đầy vôi trắng,một yêu quái bất nam bất nữ.
Sao trong chốn hoang vu này lại có người Hán? Kinh ngạc song Hoa Nghiêm không dám thất lễ,mở ngay cửa lớn để đón tiếp.
Hổ Phách vẫn như cũ, thời gian không lưu lại một chút vết tích nào trên gương mặt của nàng, nếu không có bất ngờ, thì tương lai cho đến sau khi chết đi, dáng vẻ nàng vẫn như hiện tại, nhìn thấy Hoa Nghiêm gật đầu chào, tiếp theo nàng đưa đứa bé ôm trong lòng cho Hoa Nghiêm nhìn, nở nụ cười hỏi: “Đây là cháu của ta, có khôi ngô không?”
Hổ Phách nói có con trai, lại có nữ nhân sinh con cho nhi tử của nàng, tên tục là Tiểu Tô…Đứa bé Hổ Phách đang ôm trong lòng chính là Tô.
Tô Hàng đi trên đảo muốn tìm thổ dân thì cần có dây chuyền hạt châu, không ngờ lại có được một hộp tráp đá, sau đó không trì hoãn, ngồi thuyền quay trở về trung thổ, trong lúc về bất ngờ xuất hiện điều thuận lợi, không ngừng được gió mùa trợ giúp, lại còn đi đường đều là thuận triều, giống như ông trời phái biển lớn hơi nhiêng về phía Tô Hàng, tương trợ Tô Hàng trở về nhà vậy, ngay cả lão chèo thuyền cũng chèo nhanh khác thường.
Đến Trung Thổ, cái nơi mà Tô Hàng lên bờ chính là chỗ mà nàng chia tay cùng với Tống Dương. Nam Lý không có bờ biển, Tô Hàng ở Đại Yến vừa là kẻ phản nghịch đang bị truy nã, cũng chỉ có thể cập bến ở chỗ này thôi.
Vốn dĩ Tô Hàng đã chuẩn bị xong để vượt qua Man Hoang (vùng đất hoang vu man dại), không ngờ rằng đến khi tới nơi này mới phát hiện, ở đây có hơn một toán Dã nhân, lần đầu tiên nhìn thấy thuyền lớn là thành khẩn quỳ lạy, tiếp theo là hoa chân múa tay vui sướng, bộ dạng phấn chấn vô cùng, khi giao thiệp với Dã nhân bên dưới đã đưa cho Tô Hàng một tấm ván gỗ được giữ gìn sáng bóng, trên đó nổi bật lên mấy chữ Hán được dùng than để viết: Mời Tô Hàng bên trong, thuyền người ngoài mau cút.
Phần đề chữ là Hổ Phách.
Tô Hàng vừa kinh ngạc lại vừa buồn cười, chỉ vào tấm ván gỗ lại vừa chỉ vào mình, gật đầu mạnh một cái, Dã nhân cũng không phân biệt được, dù sao thì nàng ta nói thì phải làm, lập tức đưa Tô Hàng cùng tiến vào Man Hoang tìm Hổ Phách.
Trong lúc đợi gặp Hổ Phách, Tô Hàng mới hiểu rằng nàng hầu như đã trở thành nữ Hoàng đế ở chốn này rồi, Dã nhân thủ hạ vô số, đối với nàng sùng bái như thần thánh.
Thành thật mà nói, Hổ Phách cũng tốt Tống Dương cũng được, thậm chí ngay bản thân Tô Hàng, lúc ly biệt hồi đó đều không ngờ rằng nàng một ngày nào đó nàng có thể quay lại, Hổ Phách lưu lại ở chỗ Dã nhân thiên nhiên này, cũng chẳng qua là “mưu sự tại nhân” (cứ tận tâm tận lực mà làm) mà thôi.
Hai nữ nhân đều là những tài nữ kỳ lạ ở cõi đời này, quan hệ trước đây rất tốt, bây giờ gặp lại hiển nhiên là có một niềm vui sướng, nói chuyện với nhau, có lẽ cũng là đủ mấy trăm cân rồi nhưng lúc Hổ Phách đang nghe Tống Dương lại có con trai rồi thì càng cười lớn,không khép miệng.
Vui mừng rất nhiều, trên mặt Hổ Phách còn ẩn chứa may mắn: “May mà trở về đúng lúc, ta đang chuẩn bị rời khỏi chỗ này.”
Trước kia lánh nạn, dù thời gian chung sống với nhau trên thuyền tuy ngắn, nhưng Tô Hàng cũng đại khái hiểu được tính cách của Hổ Phách, cười hỏi lại: “Ở đây chơi chán rồi hả?”
Không ngờ Hổ Phách lại lắc đầu, mất hứng nói: “Không phải là không muốn tiếp tục, là không thể chơi đùa nữa rồi, khởi hành đi, cùng ta đi Nam Lý, vừa đi vừa nói.”
Cuộc khởi hành của Hổ Phách trong rừng rậm đã có thuộc hạ Dã nhân săn sóc, nhưng lúc ra khỏi khu rừng thì đến một Dã nhân cũng không mang theo…Nhảy xuống cáng tre, nàng phất tay với đám dã nhân ở phía sau, phía bên kia liền quỳ rạp xuống đất, dập đầu thịch thịch bái lạy, rồi lập tức đứng dậy quay trở về chốn rừng sâu. Hổ Phách thì tay ôm bé Tô, và cùng với nhóm người của Tô Hàng cùng hướng đi đến Bạch cổ lầu.
Tiểu Tô không phải là đứa bé có gì đặc biệt, tất cả trọng lượng là khoảng ba mươi cân(bằng 15 kg), cơ thể gầy yếu của Hổ Phách ôm lấy nó mà không rời tay, đủ để thấy nàng yêu thương đứa bé đến thế nào.
Hổ Phách là thường hầu và tả thừa tướng đều gọi là nhân vật quan trọng cần phải lưu ý, Hoa Nghiêm sau khi tiếp đón nàng, lập tức thông báo lên trên, nhưng khiến mọi người tràn đầy bất ngờ là, chưa đầy mấy ngày, tả thừa tướng lại hạ cố đích thân đi đến tiếp đón Hổ Phách.
Trước đó Hổ Phách chưa giới thiệu thân phận đám người của Tô Hàng với Hoa Nghiêm, trong lúc trình báo đương nhiên không thể bỏ qua những “ kẻ nhàn rỗi không liên quan”, kết quả tả thừa tướng khi nhìn thấy Tô Vũ, bà ngoại thìvô cùng ngạc nhiên, và sau khi biết thân phận của Tiểu Tô thì lại càng sửng sốt hơn nữa.
Xem ra, mọi người đúng là cùng chung hoạn gọi là tình, lần này trùng phùng chỉ có thân thiết chứ không tồn tại sự ép buộc, sau một tràng cười, tả thừa tướng hướng về Hổ Phách: “ Báo cáo về Bạch Cổ Thành lần trước, Hổ Phách đại nhân phía trước phía sau có vô số thổ dân…Ta còn cùng với Tống Dương còn nói qua chuyện này, Tống Dương suy đoán đã thống lĩnh toàn bộ vùng hoang dã, trở thành nữ thần trong mắt thổ dân rồi.”
Tiếp, lão nhân bật cười ha hả, tiếp tục nói: “Điều này người khác nghe được thì sợ hãi, nhưng bọn ta đều đã hiểu biết về bản lĩnh và tài năng của đại nhân, càng nghĩ lại càng cảm thấy, thực sự là còn có khả năng này.”
“ Dựa vào khả năng dùng thuốc, dùng độc, đã bắt đầu liên tiếp khuất phục được vài tộc thổ dân, từ vài tộc thổ dân cũng đã thành đại tộc, lại đã chinh phục được nhiều hơn nữa dân tộc khác, cứ thế lặp đi lặp lại, như là lăn quả cầu tuyết vậy, thuộc hạ càng ngày càng đông, địa phận càng ngày càng lớn, cảm giác cũng không tệ, ta liền không đi nữa, tự mình suy xét, không chừng còn có t hể thống nhất cõi hồng hoang, thành lập đất nước của Dã nhân, cũng là một việc thú vị.” Theo như tính khí của Hổ Phách, đương nhiên không khiêm nhường giả bộ, hoặc là tự dưng phóng đại sự việc, mà có sao nói vậy: “Đáng tiếc, sau này dần dần phát hiện ra chốn hồng hoang quả thực rộng lớn lắm, nhất là lúc tìm kiếm đến chốn sâu thẳm thì phát hiện ra, nơi này thật sự đáng sợ…”
Với tính cách của Hổ Phách, lúc nàytrên mặt nàng mà lại dâng lên một chút hoảng sợ, dừng lại một lát sau mới tiếp tục nói: “Thống nhất mười vạn hồng hoang, là chuyện không thể, thì ta chỉ có thể nắm giữ một chốn, cụ thể rộng bao nhiêu ta cũng không biết rõ.”
Hồ Đại nhân rất hứng thú, hoàn toàn là dáng vẻ tán gẫu: “Có thể chiếm được một mảnh, thống nhất cai quản được nhiều tộc Dã nhân, đã là tài ba trong những việc tài ba rồi! Dù sao theo như hiểu biết của ta, trên đời này có thể làm được chuyện này, trừ ra…chỉ có Tống Dương, không có ai khác nữa đâu.”
Đây không phải là tán thưởng Hổ Phách, đây là ca ngợi Tống Dương. Quả nhiên, người mẹ đó bật cười, thần sắc khá vui vẻ: “Lão Hồ, có lời thì nói thẳng ra đi, không cần nói tới nói lui nữa/vòng vo nữa.”
Phái nữ dạo chơi chốn nhân gian, bất cứ việc gì cũng đặt ở trong lòng, nhưng đó không có nghĩa là Hổ Phách tâm tư đơn giản,mà hoàn toàn ngược lại, có thể có ngọn nguồn lớn lao như Vưu Ly, có thể gây cho Yến đỉnh phiền toái vô cùng, lại cùng với Trần Phản La Quan đại tông sư chân truyền- gọi là người tâm đầu ý hợp, sao là người tầm thường được, có chuyện như thế nào mà nàng chưa gặp qua chứ.
Tả thừa tướng ho khan một tiếng, không nói vòng vo nữa: “Xin hỏi Hổ Phách đại nhân, có thể điều động được bao nhiêu Dã nhân?” Tình hình hiện nay, hoàng đế hãy còn không có cách nào đảm đương gách vác, không thể đếm được bao nhiêu chuyện đều đè nặng lên đôi vai của Tả thừa tướng, nếu như trong lòng không phải có mục đích lớn lao, thì dù cho mọi người có cái gọi là tình, cũng không có chuyện ngài ấy đích thân đến đây chuyến này.
“Mưu đồ” của lão nhân, thì chính là nằm trong câu hỏi này, chính là trong tay của Hổ Phách, rốt cuộc là điều động được bao nhiêu dã nhân…Hổ Phách sau lần đầu tiên xuất hiện lại từ mười vạn hồng hoang , Hồ đại nhân đã phái người đến hỏi dò mỗi binh sĩ ở Bạch cổ lầu, đã điều tra, chứng thực trình báo là chuẩn xác, phía sau Hổ Phách không thể tính toán chính xác số lượng của Dã nhân.
Khi gặp quốc nạn, Hồ đại nhân nghĩ đến mời Hổ Phách điều động Dã nhân xuất núi, giúp Nam Lý đánh trận, mà dựa vào mối quan hệ giữa Hổ Phách và Tống Dương, chuyện này cũng không phải là không có khả năng nào.
Hổ Phách trả lời thẳng thắn: “Ta chưa từng đếm qua, không biết là có bao nhiêu người. Có điều…có bao nhiêu người cũng vô ích. Nếu như có thể điều động bọn họ rời núi, cũng chẳng đợi đến lúc này mời ta, trước đây lúc Tống Dương đang ở Thanh Dương nghênh chiến với mọi tộc, thì ta đã có thể đưa người xuất núi, giúp hắn đi đánh trận rồi. Dã nhân không thể xa rời sơn lâm, dù có là ta cũng không thể đưa bọn họ đi.”
Hồ đại nhân không cam lòng, cau mày nói:
- Dã nhân không thể xuất núi? Làm sao mà thế được? Theo như tôi biết, ba trăm năm trước quái vật ở man hoang đã xâm nhập vào nhân gian (thế giới của con người), tàn sát đẫm máu, còn ghi chép rõ ràng trong sử sách, một cơn đại họa lớn như thế.
Nghe vậy, Hổ Phách bỗng nhiên nở một nụ cười.