“MỪNG NGÀI VỀ NHÀ, đức ngài,” Jarvis nói với kiểu cúi đầu cứng nhắc đặc trưng.
Công tước Ridgeway gật đầu đáp lại ông quản gia và đưa mũ cùng găng tay cho ông ta.
“Nhà cửa có vẻ yên ắng quá. Mọi người đâu hết cả rồi?”
“Tất cả khách khứa đi cả rồi ạ, thưa đức ngài,” ông quản gia báo. “Hầu hết lên đường từ hai ngày trước.”
“Còn Lord Thomas?” công tước hỏi.
“Đi ngày hôm qua, thưa đức ngài.”
“Còn nữ công tước đâu?”
“Trong phòng lệnh bà, thưa đức ngài.”
Công tước quay đi. “Bảo Sydney đến chỗ ta, và chuẩn bị nước tắm cho ta.”
Thật nhẹ nhõm làm sao, anh nghĩ khi đi qua những hành lang lát đá cẩm thạch về dãy phòng riêng của mình, cuối cùng cũng thoát khỏi cỗ xe ngựa. Dường như nó vô cùng trống trải và vắng lặng khi không có cô. Suốt chuyến hành trình anh chẳng có việc gì làm ngoài nghĩ ngợi. Và nhung nhớ.
Cả hai việc đó anh đều không muốn làm. Anh sẽ tắm qua một cái, thay quần áo sạch, lên lầu gặp Pamela, rồi đến thăm Sybil. Vậy là Thomas đã đi mà không đưa cô ta theo. Và anh cho rằng mình sẽ lại là kẻ bất lương, giống như lần trước.
Tội nghiệp Sybil. Anh cảm thấy thực sự đau lòng cho cô ta, và anh biết rõ cô ta đang cảm thấy ra sao – nhức nhối, trống rỗng, không thể thuyết phục bản thân rẳng cuộc đời có thể đem lại chút niềm vui. Đôi khi thật khó để khiến trái tim hiểu như lý trí rằng sẽ có lý do để ta mỉm cười trở lại.
“Nước tắm ở chỗ quỷ nào hả?” anh thô lỗ hỏi khi người hầu của anh đi qua cửa phòng thay đồ.
“Đâu đó giữa nhà bếp và trên này, thưa ngài,” Sydney đáp. “Ngài sẽ chỉ thắt chặt nút ca vát đến mức vô phương tháo ra nếu ngài cứ giật nó như thế. Để tôi cởi nó cho đúng cách nào.”
“Quỷ tha ma bắt sự láo xược của ngươi. Ngươi làm cách nào sống sót qua tuần vừa rồi mà không có ta để chăm lo nhặng xị như gà mái mẹ hả?”
“Rất yên bình, thưa ngài,” người hầu của anh nói. “Quả thực rất yên bình. Ngài đang đau phải không?”
“Rốt cuộc cũng không đau,” công tước cắn cảu nói. Anh quay người nhìn hai đầy tớ nam đang xách những xô nước nóng vào.
“Dù gì tôi cũng sẽ xoa bóp cho ngài sau khi ngài tắm xong. Hãy ngồi xuống để tôi xử trí cái nút thắt kia kẻo phải lấy dao cắt đứt đấy.”
Công tước ngồi xuống và ngửa cằm lên như một đứa trẻ ngoan ngoãn.
Anh nóng lòng muốn tắm, thay đồ và đi lên lầu. Để gặp Pamela. Phải, nhất định là để gặp Pamela. Có còn ai nữa đâu. Không còn nỗi háo hức quen thuộc muốn lên đó, để ngồi trong phòng học nghe cô giảng bài và biến mọi bài học thành chuyến phiêu lưu. Từ giờ trở đi sẽ chỉ có Pamela thôi.
Thế nhưng ngoài nỗi háo hức muốn gặp con gái ra anh vẫn sốt ruột muốn lên đó. Có lẽ anh phải chứng minh với bản thân rằng Fleur đã đi thật rồi. Anh nghĩ xét về nhiều mặt cô thật may mắn. Cô sẽ sống ở một nơi anh chưa bao giờ đến. Sẽ không có những bóng ma. Còn anh sẽ phải bước vào phòng trẻ, phòng học, phòng nhạc, thư viện, phòng tranh – tất cả những nơi cô từng lui tới.
Nhưng anh không muốn nghĩ ngợi. Anh sẽ không nghĩ ngợi. Anh bồn chồn đứng dậy sau khi Sydney đã tháo được nút thắt ca vát với một vẻ hài lòng gần như láo xược, và nôn nóng giật hàng cúc áo. Một nút áo bật rơi vào tay anh, anh chửi thề và vứt nó vào giá rửa mặt.
“Tối qua chắc hẳn có người phải ngủ trên tấm đệm lổn nhổn than đá,” Sydney vui vẻ nói một cách vu vơ.
“Và có người đang muốn bị xách tai quẳng ra khỏi nhà,” công tước nói, lột áo sơ mi ra và lại ngồi xuống để gã người hầu có thể giúp anh cởi đôi giày ống Hessian.
Nữ công tước Ridgeway đang ở trong phòng khách riêng. Công tước nghe thấy tiếng ho của cô ta lúc đến gần. Anh gõ cửa, đợi hầu gái của cô ta ra mở cửa, nhún gối chào anh rồi rời khỏi phòng.
Cô ta đang đứng phía bên kia phòng, giữa những hàng cột mảnh đỡ khối mũ cột. Cô ta mặc chiếc áo choàng ngủ suôn dài màu trắng, tóc xõa xuống lưng. Nom cô ta nhợt nhạt như màu áo trừ hai gò má đỏ rực, dáng hình gầy gò và tiều tụy. Chắc chắn Sybil đã sụt cân kể từ lần cuối anh gặp.
“Sybil,” anh bước về phía vợ, nắm lấy hai tay và cúi xuống hôn má cô ta. “Nàng có khỏe không?”
Đôi tay và gò má cô ta lạnh như băng.
“Khỏe. Em khỏe, cảm ơn ngài.”
“Ta nghe nói nàng bị ho. Những cơn ho vẫn làm nàng khó chịu sao?”
Cô ta phá lên cười và rút hai tay khỏi tay anh.
“Nom sắc mặt nàng không tốt. Ta sẽ đưa nàng và Pamela lên London để nàng được một bác sĩ chuyên khoa khám, sau đấy chúng ta sẽ đi Bath khoảng một hay hai tháng. Thay đổi không khí và khung cảnh sẽ tốt cho tất cả chúng ta.”
“Em ghét ngài,” cô ta nói bằng chất giọng lanh lảnh, ngọt ngào của mình. “Em ước có từ nào mạnh hơn để dùng vì em cảm thấy hơn cả căm ghét đối với ngài. Nhưng em không nghĩ được cách thể hiện nào khác.”
Anh quay đi khỏi cô ta. “Chú ấy đi ngày hôm qua phải không?”
“Ngài thừa biết còn gì. Ngài đã ra lệnh cho anh ấy đi.”
Anh xoa tay ngang trán. “Ta cho rằng nàng đã cầu khẩn chú ấy đưa nàng theo. Tại sao nàng nghĩ chú ấy từ chối, Sybil?”
“Anh ấy quá lo cho thanh danh của em,” cô ta nói.
“Và chú ấy sẽ đặt thanh danh của nàng lên trước hạnh phúc của nàng? Và hạnh phúc của chú ấy sao? Nàng có thấy lý do của chú ấy thuyết phục không?”
“Em muốn ở một mình,” cô ta nói, đi tới chiếc đi văng và gieo mình xuống, “Em muốn ngài đi cho. Em đã hy vọng lần này ngài sẽ không quay về. Em đã hy vọng ngài thấy nhan sắc của cô ta quá sức lôi cuốn. Em ước gì ngài sẽ quay lại với cô ta để em không bao giờ phải trông thấy ngài nữa.”
Anh thở dài và quay lại nhìn xuống cô ta. “Sáu năm trước, chắc chắn ta sẽ hy sinh đời mình để cứu nàng khỏi đau khổ, Sybil. Ta nghĩ có lẽ mình đã làm hơn cả thế. Ta vẫn ghét nhìn thấy nàng chìm trong khổ sở. Nàng là vợ ta và ta đã cam kết làm tất cả mọi thứ trong khả năng của mình để bảo vệ sự an toàn và hạnh phúc của nàng. Ta biết nàng đang mang nỗi đau gần như quá sức chịu đựng. Nhưng không thể hoàn thành được việc gì nếu cứ nhìn mãi về quá khứ. Chúng ta không thể cùng nhau đi tiếp và cố gắng làm cho những gì còn lại trong đời mình ít nhất được yên ổn sao?”
Cô ta lại cười mà không nhìn anh.
“Một cuộc hôn nhân đến từ hai phía. Ta là chồng nàng, Sybil. Nàng cũng đã cam kết làm tất cả mọi thứ trong khả năng của mình để bảo đảm cho ta hạnh phúc. Chẳng lẽ trong lòng nàng không có điều gì để nàng chú tâm, cố làm ta vui lòng sao? Làm điều đó đâu có khó? Ta sẽ mãn nguyện với một chút tử tế, một chút tình bạn thôi cũng được.”
Lần này khi cười cô ta nhìn anh. Nhưng tiếng cười biến thành cơn ho kéo dài.
Anh quỳ xuống trước mặt cô ta, đỡ lấy đầu cô ta rồi đưa cho cô ta khăn tay của anh. Nhưng cô ta gạt tay anh ra.
“Thứ Hai,” anh nói khi cuối cùng cơn ho đã ngừng, “chúng ta sẽ khởi hành đi London. Trong thời gian ba ngày. Hãy bảo Armitage bắt đầu sửa soạn hành lý cho nàng.”
Cô ta lại cười khanh khách. “Ngài có thể giữ lấy những vị bác sĩ của ngài, Adam. Chẳng bác sĩ nào giúp được em đâu. Em không muốn dây dưa với họ.” Cô giở khăn tay của mình ra và mỉm cười với anh khi để lộ những vết máu đỏ tươi trên chiếc khăn.
Anh nhìn chằm chằm vào nó, cảm thấy máu như rút hết khỏi đầu, và anh gục xuống áp trán lên hai đầu gối cô ta.
“Hẳn là ngài biết, nếu không thì ngài đúng là cực kỳ ngu ngốc. Ngài đi đi, Adam. Em không muốn dây dưa với ngài hay bất cứ vị bác sĩ nào của ngài.”
Anh ngẩng đầu lên nhìn vào mặt cô ta. “Sybil,” anh thì thầm. “Ôi, tội nghiệp em yêu quý của ta. Tại sao trước giờ nàng không nói gì? Bác sĩ Hartley có biết không? Tại sao ông ấy không nói với ta? Nàng không nên một mình trải qua chuyện này.”
“Tại sao ấy à? Ngài có định chết cùng em không, Adam? Hay ngài sẽ chỉ nắm tay em trong suốt lúc đó? Không, cảm ơn ngài. Em thích chịu đựng một mình hơn.”
Cô ta quay phắt đầu đi khi gương mặt nhăn lại như sắp khóc.
Anh lập tức đứng dậy và kéo cô ta vào lòng. Anh ôm cô ta thật chặt, đung đưa vỗ về và hôn lên đỉnh đầu cô ta.
Nhưng cô ta đẩy anh ra ngay khi lấy lại phần nào bình tĩnh. “Em muốn ở một mình. Em muốn chết một mình. Nếu Thomas không có ở đây để ôm em, thì em sẽ chết một mình. Không!” Cô ta quay phắt đi khi anh đưa tay về phía cô ta. “Ngài không cần phải rộng lượng và báo tin cho anh ấy. Ngài định đề nghị điều đó đúng không? Em đi guốc trong bụng ngài, Adam.”
Anh lặng thinh.
“Em biết anh ấy sẽ không đến. Anh ấy sẽ không đến kể cả khi em khỏe mạnh và ngài chu cấp cho em một triệu bảng. Ngài có cho rằng anh ấy sẽ đến để giúp em chết không?”
“Sybil,” anh nói, chìa bàn tay cho cô ta.
Cô ta cười cay nghiệt hơn trước. “Ngài tưởng em không biết sự thật sao? Ngài tưởng em chưa bao giờ nhìn thấu nó sao? Nhưng nó không làm em bớt ghét ngài đi chút nào. Em ghét ngài tỏ ra quá cao quý và thấu hiểu. Em ghét ngài lúc nào cũng sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm. Em mừng vì mình mắc bệnh lao phổi. Em mừng vì sắp được chết.” Cô ta quay lưng lại với anh.
“Ta sẽ không để nàng buông xuôi mà không đấu tranh. Có nhiều cách chữa căn bệnh của nàng. Giá như nàng nói với ta sớm hơn, hoặc bác sĩ… ta chắc rằng nàng đã bắt ông ta giữ bí mật – lẽ ra chúng ta đã có thể làm gì đó. Ta nghe nói khí hậu ấm áp rất có ích. Ta sẽ đưa nàng tới nơi nào ấm áp. Tây Ban Nha hoặc Ý chẳng hạn. Chúng ta sẽ ở đó qua mùa đông. Hè sang nàng sẽ khỏi bệnh. Sybil, đừng từ bỏ hy vọng. Đừng từ bỏ ý chí sống.”
“Em muốn nằm nghỉ. Ngài hãy rung chuông gọi Armitage, Adam. Em thấy mệt rồi.”
Anh lập tức kéo chuông và quay lưng đi. “Ta sẽ chăm sóc cho nàng hồi phục, dù nàng thích hay không. Và cho dù nàng ghét ta, ta vẫn sẽ giữ lại sự sống cho nàng để nàng ở bên ta. Và ở bên Pamela. Hãy nghĩ tới con bé, Sybil. Nó cần nàng sống. Nó tôn thờ nàng.”
“Con gái bé bỏng tội nghiệp. Khi em đi rồi nó sẽ thành trẻ mồ côi thực sự.”
“Con bé sẽ luôn có ta, cha nó. Và con bé sẽ có cả nàng nữa. Ta sẽ bảo Houghton thu xếp để sang Ý mùa đông này.”
Đúng lúc ấy cô hầu gái bước vào phòng.
“Lệnh bà bị mệt. Cô vui lòng giúp lệnh bà về giường, Armitage.”
Anh nhìn nữ công tước, mong manh và xinh đẹp, dựa hẳn vào cánh tay cô hầu khi cả hai đi khuất vào phòng thay đồ. Anh cưỡng lại thôi thúc muốn bế cô ta lên và mang cô ta về giường. Anh biết hành động đó sẽ không được cảm kích.
Hai ngày sau khi công tước về nhà, Peter được phái lên London để bàn bạc với luật sư của công tước và gặp luật sư của Lord Brocklehurst xem ông ta có thể thu xếp một cuộc sống đầy đủ cho Fleur không. Và anh ta phải mua một cây đàn piano gửi về cho cô như một món quà tặng nhà trường. Công tước nhất định muốn Fleur phải có một chiếc đàn.
Một món quà. Chỉ có thế. Một món quà và không liên lạc gì nữa.
Anh dành một phần buổi sáng đầu tiên ở nhà đưa con gái và chú chó đi dạo. Anh hứa với con bé rằng đến chiều họ sẽ cưỡi ngựa sang nhà quý ông Chamberlain để nó chơi với bọn trẻ bên đấy.
“Con sẽ cưỡi ngựa với Papa,” con bé bất chợt nói.
“Không được,” anh cười. “Con sẽ cưỡi con ngựa của con, Pamela. Ta tưởng con không còn sợ nữa?”
“Nhưng không có cô Hamilton cưỡi ngựa cạnh con.”
“Con không cần sự giúp đỡ nào hết. Từ giờ một mình con có thể làm tốt. Ta sắp phải tìm cho con một gia sư khác, một người sẽ đi Ý cùng chúng ta.”
“Con không muốn có gia sư khác, con muốn cô Hamilton cơ.”
“Chà,” anh cúi xuống nhấc chú chó lên và đem nó đi qua nhà lên cầu thang. “Cô Hamilton đã có cuộc sống khác rồi, Pamela. Giờ cô ấy đang dạy cả một ngôi trường.”
“Cô ấy không thích con,” nó hờn dỗi. “Con luôn biết cô ấy không thích con mà.”
Anh đặt tay lên đầu con bé xoa mạnh. “Con biết đó không phải sự thật, Pamela. Cô ấy yêu con.”
“Thế tại sao cô ấy lại bỏ đi? Cô ấy thậm chí không chào tạm biệt nữa.”
Anh thở phào nhẹ nhõm vì con bé chợt bị phân tâm khi con chó từ trên tay anh nhảy xuống chỗ đầu cầu thang và phóng về phía cánh cửa phòng trẻ. Pamela cười khúc khích và co cẳng đua theo nó.
Công tước đi ra khu tàu ngựa và ra lệnh thắng yên con ngựa của mình. Anh cưỡi ngựa trong nhiều giờ đồng hồ sau đó, hoàn toàn quên bẵng bữa trưa. Anh cho ngựa đi nước kiệu qua những bãi có sau nhà, qua rừng cây, qua khu tàn tích, tránh khu vườn phía trước nhà.
Anh cố hướng tâm trí vào những kế hoạch tương lai. Anh sẽ đưa Sybil đến London trước khi họ rời nước Anh. Họ sẽ tìm bác sĩ giỏi nhất để khám cho cô ta và chẩn đoán cơ may hồi phục. Sau đó họ sẽ đi Ý, chí ít là qua mùa đông, và anh sẽ đảm bảo cho cô ta được tắm nắng mỗi ngày.
Cô ta mới hai sáu tuổi. Quá trẻ để rời bỏ cuộc đời.
Thật kỳ lạ, làm sao một người có thể biết rõ một điều gì đó ở trong đáy sâu tâm trí, vậy mà vẫn hoàn toàn không nhận ra nó? Liệu anh có biết hay nghi ngờ Sybil bị lao phổi? Tất cả triệu chứng đều có ở đó, đập vào mắt anh. Nhưng không một ai nói gì. Anh cho rằng ít nhất bác sĩ phải thông báo cho anh.
Thomas từng nhắc có lẽ cô ta bị lao phổi. Nhưng anh đã phủ nhận khả năng ấy.
Có lẽ phủ nhận của anh cũng giống với những chối bỏ của Sybil. Từ lâu cô ta đã biết sự thật về Thomas, hôm qua cô ta đã nói ra. Nhưng cùng lúc ấy cô ta lại không biết, hoặc đã chối bỏ điều đó ngay cả với trái tim mình.
Cô ta đã đến giai đoạn ho ra máu. Thế có nghĩa căn bệnh đã vào giai đoạn cuối? Không còn hy vọng hồi phục sao?
Nhưng anh sẽ chăm sóc cho cô ta khỏe lại.
Chỉ cần cô ta sẵn lòng đón nhận sự chăm sóc của anh, sự bầu bạn của anh, tình yêu mến vô điều kiện của anh. Nhưng cô ta không chấp nhận.
Adam nghĩ kẻ thù ghê gớm nhất của Sybil chính là bản thân cô ta. Những chuyện đã trải qua với Thomas, việc mang thai ngoài giá thú và bị ép buộc lấy Adam trong khi cô ta không yêu anh, tất cả đã làm cô ta héo mòn. Anh sẽ không xem nhẹ nỗi đau cô ta phải gánh chịu.
Làm sao anh có thể xem nhẹ khi chính anh đang trải qua nỗi đau ấy? Nhưng lẽ ra cô ta có thể tự cứu mình.
Nếu Sybil thực sự hiểu rằng Thomas đã tàn nhẫn bỏ rơi cô ta, lẽ ra ít nhất cô ta có thể nỗ lực làm điều gì đó cho cuộc hôn nhân của mình. Cô ta có thể dồn hết tình yêu thương cho Pamela, không dành cho anh cũng được. Vì mọi niềm vui đã bị tước đoạt, lẽ ra cô ta có thể dồn tâm sức đem hạnh phúc cho người khác.
Nhưng bản chất của Sybil không phải con người mạnh mẽ. Nếu cô ta được hạnh phúc, chắc chắn cô ta sẽ ngọt ngào tốt bụng suốt đời. Nhưng cô ta chỉ biết nhận mà không biết trao, và một khi mọi thứ cô ta nâng niu bị cướp mất, cuộc sống của cô ta sẽ chẳng còn lại gì ngoài cay đắng, căm hận và khao khát được ái ân đến tuyệt vọng.
Anh chỉ có thể cảm thấy hết sức hối tiếc cho cô ta. Và ra sức giúp cô ta vượt qua cơn khủng hoảng mới nhất, tồi tệ nhất này. Quá ư đáng buồn nếu cô ta ra đi quá sớm mà chưa kịp biết rằng cuộc sống còn có bao điều ý nghĩa.
Tất nhiên, chẳng dễ dàng gì khi quay lưng với những nỗi đau trong quá khứ và dồn mọi năng lượng cho hiện tại và tương lai. Không dễ chút nào.
Rốt cuộc anh thấy mình quay ngựa ra phía trước nhà và chạy nước kiệu trên những bãi cỏ thoai thoải dọc khu vườn dài. Rồi anh chuyển sang nước đại, giục Hanibal tăng tốc tối đa, chưa thể bứt hẳn khỏi những suy nghĩ trong đầu.
Được hai dặm anh liền ngoắt sang trái gần như theo bản năng và cho ngựa nhảy qua cổng vào đồng cỏ. Anh ghì cương và vỗ vỗ vào cổ ngựa, rồi ngoái lại và thấy cô trong ký ức đang phóng qua cánh cổng sau anh hơn một bước chân. Anh gục đầu xuống và nhắm mắt lại.
Không, không hề dễ dàng. Đêm qua anh đã mất ngủ, đôi tay và cơ thể anh khao khát có cô. Anh nhớ lại mái tóc mềm mại thơm ngát, làn da mượt như lụa của cô, bầu ngực căng tròn, vòng eo nhỏ và cặp hông đầy đặn, đôi chân dài thanh mảnh, bờ môi nóng bỏng và say đắm của cô, sự ấm áp và ẩm ướt nơi nữ tính sâu kín của cô.
Và anh nhớ cô nằm yên lặng, ngái ngủ và ấm áp trong vòng tay anh giữa những lần ân ái, mỉm cười với anh dưới ánh nến mờ ảo, giữa họ không cần thốt lên một lời nào. Rồi lúc cô nắm tay anh lên trên xe ngựa, bờ vai tựa ngay dưới vai anh.
Fleur. Lạy chúa. Fleur.
Nếu Sybil chết, ý nghĩ đó bỗng từ đâu lẻn tới, anh sẽ có thể lấy Fleur.
Anh lắc mạnh đầu và quay ngựa đi theo lối đi bộ dài xuyên qua đồng cỏ. Anh sẽ không để cô ta chết. Cô ta là vợ anh, cô ta đang ốm và không hạnh phúc. Anh sẽ không để cô ta chết.
Anh sẽ không nghĩ đến Fleur. Anh không có quyền nghĩ về cô. Bởi anh đã kết hôn với Sybil.
Anh đi theo lộ trình đã đi cùng Fleur lần trước. Tuy nhiên khi băng qua cánh cổng trở lại khu vườn, anh rẽ sang hướng khác đến khi con ngựa bước ra một lối đi nằm ở phía nam bờ hồ, đối diện tiểu đình trên đảo.
Nơi anh đã nhảy điệu valse với Fleur tại vũ hội ngoài trời.
Ngay tại đó. Trên lối đi. Cô đã rất sợ anh, sợ sự đụng chạm của anh. Cô đã nhắm chặt mắt. Rồi âm nhạc và không gian đã kéo cô vào sự huyền diệu của chúng như đã làm với anh, và họ khiêu vũ như thể họ sinh ra để khiêu vũ cùng nhau.
Fleur xinh đẹp trong chiếc váy dài xanh nhạt và mái tóc đỏ ánh vàng rực rỡ.
Anh nhìn chằm chằm chỗ họ từng khiêu vũ. Nhưng không còn tiếng nhạc, không còn ánh đèn lồng. Không còn Fleur.
Chỉ có lối đi ngập nắng, tiếng gió thổi qua tán cây và tiếng chim hót ríu ran.
Anh nuốt khan hai lần và quay ngựa đi về nhà.
Sáng hôm đó Sybil đã đi Wollaston. Anh phải đi tới đó để đảm bảo cô ta về nhà an toàn và không có chuyện xấu xảy ra trong chuyến đi. Ngày hôm đó đẹp trời và ấm áp. Biết đâu cô ta sẽ thích đi bộ một quãng ngắn, dựa vào cánh tay anh.
Và biết đâu kỳ tích sẽ xảy ra.
Họ định lên đường vào cuối tháng Chín, hơn ba tháng sau khi Fleur rời khỏi Willoughby. Công tước Ridgeway thấy mừng vì ít nhất được trải qua mùa thu ở nước Anh. Anh hay đi dạo quanh điền trang của mình, lúc đi bộ, lúc cưỡi ngựa, lúc lại tản bộ cùng con gái và chú chó giống colly, chiêm ngưỡng sự thay đổi màu sắc của lá cây và thảm lá rực rỡ dưới bước chân. Pamela thích đi bộ trên đám lá khô cùng anh, giẫm chân lên đám lá lạo xạo.
Anh biết mình sẽ nhớ tất cả những điều ấy trong suốt mùa đông. Chúng gợi nhắc cho anh về những tháng năm dài dằng dặc của những chiến dịch chống lại Bonaparre và nỗi nhớ nhà khi anh phiêu bạt cùng trung đoàn.
Nhưng họ phải lên đường. Sybil không muốn đi, và bướng bỉnh tuyên bố cô ta sẽ không đi đâu hết. Nhưng đây là vấn đề mà anh sẽ dùng quyền hành của mình bắt người khác phải tuân theo. Nếu cô ta đã hết nghị lực sống, thì anh sẽ tiếp thêm cho cô ta. Anh sẽ truyền sức mạnh của mình cho cô ta và khiến cô ta khỏe lại.
Cô ta không mấy khi tỏ ra là mình có bệnh. Khách khứa đi hết rồi, cô ta lại cuồng chân và liên tục ra ngoài thăm thú, thỉnh thoảng đưa Pamela theo, nhưng phần lớn là đi một mình. Khi cô ta mời khách tới nhà – anh hiếm khi làm thế vì sợ cô ta mệt – cô ta rạng rỡ và vui vẻ hẳn lên. Một buổi tối Duncan Chamberlain tỏ ra khó chịu rõ rệt khi cô ta lả lơi với anh.
Nhưng có nhiều lúc – đôi khi mấy ngày liền – cơn sốt cao và ho nặng đã giam cô ta trong phòng.
Công tước đến thăm họ hàng ngày, hỏi thăm sức khỏe cô ta, cố kéo cô ta vào cuộc trò chuyện, nhưng bất thành.
Và cô ta sẽ không đi Ý hoặc gặp bất kỳ vị bác sĩ nào, Sybil đã tuyên bố vậy mỗi khi anh khơi ra chủ đề ấy.
Trước ngày khởi hành cô ta ở lì trong nhà cả ngày. Peter mang thư từ đến cho cô ta vào cuối buổi sáng, gồm cả thư của một người bạn ở London mà cô ta thường hay liên lạc.
Đó là một ngày lạnh và nhiều gió, có thể mưa bất cứ lúc nào. Lúc rời phòng trẻ và tất bật đóng gói hành lý, công tước nghĩ lúc này là thời điểm họ cần gấp rút lên đường đến những vùng đất ấm áp hơn, và xuống cầu thang để đến thăm vợ theo lịch trình hàng ngày. Cô ta đã không xuống ăn trưa.
Armitage cho anh hay, vợ anh ta đã ra ngoài trước giờ ăn trưa. Cô hầu gái tưởng rằng lệnh bà chỉ đi dạo một chốc, nhưng hẳn cô gái đã hiểu nhầm. Nữ công tước chắc chắn đã đi xe ngựa vào thị trấn.
Công tước cau mày. Anh vừa từ khu tàu ngựa về chưa đầy một giờ trước. Chẳng ai nói gì về chuyện Sybil lấy xe ngựa đi.
Nhưng kiểu thời tiết này đâu có thích hợp để cô ta đi dạo. Và bữa trưa đã dọn cách đây hai tiếng đồng hồ.
“Cảm ơn cô,” anh nói, gật đầu ngắn gọn với cô hầu gái.
Không có cỗ xe nào được thắng, năm phút sau anh biết được điều đó ở khu tàu ngựa. Nữ công tước không ra ngoài đó.
“Nhưng tôi nhìn thấy lệnh bà đi bộ về hướng kia sáng nay, thưa đức ngài,” Ned Driscoll nói, chỉ tay về phía hồ. “Từ một giờ trước rồi.”
“Cảm ơn cậu,” công tước nói.
Trời bắt đầu đổ mưa, một cơn mưa lạnh và xối xả, nó nhanh chóng thấm qua lớp quần áo và chảy thành dòng ướt sũng xuống cổ làm người anh lạnh cóng. Công tước sải bước về phía hồ.
Lập tức anh trông thấy một con thuyền đang ở trên mặt nước - bị lật úp và trôi bập bềnh. Có thứ gì đó sẫm màu bị mắc giữa đám lau sậy gần hòn đảo.
Vài phút sau, từ một con thuyền khác, anh gỡ xác vợ từ trong đám lau sậy và bế cô ta lên thuyền. Anh chèo vào bờ, cho thuyền lên cạn, cẩn thận bồng xác vợ lên tay, rồi bắt đầu đi bộ về ngôi nhà.
Cho dù ướt đẫm, áo váy sũng nước, Sybil vẫn không nặng hơn một sợi lông vũ. Một bàn tay trắng bệch mỏng manh đặt ngang bụng.
Bước chân anh có cảm giác nặng như chì. Có một khối gì chẹn trong cổ họng và ngực anh khiến anh không thở nổi.
Anh đã từng yêu cô ta - sắc đẹp, bước chân nhẹ nhàng và giọng nói dễ thương của cô ta. Với tất cả nhiệt huyết của một chàng trai trẻ anh đã yêu cô ta. Và anh đã lấy cô ta, nguyện thề yêu thương cô ta cho đến lúc chết. Vậy mà anh đã không thể bảo vệ cô ta khỏi nỗi tuyệt vọng đến không thiết sống này.
Một số gia nhân giữ ngựa đang tụ tập bên ngoài tàu ngựa, quan sát anh tiến lại như thể họ cảm thấy có chuyện chẳng lành. Và Jarvis cùng một gia nhân không hiểu sao đã ở trên bậc tam cấp hình móng ngựa khi anh mang gánh nặng của mình bước lên.
“Nữ công tước vừa gặp tai nạn,” anh nói, ngạc nhiên trước sự điềm tĩnh trong giọng mình. “Phiền ông bảo Armitage và bà Laycock tới phòng cô ấy, Jarvis.”
“Lệnh bà có bị thương không, thưa ngài?” Lần đầu tiên ông quản gia ngạc nhiên đến quên cả việc cứng nhắc.
“Cô ấy chết rồi,” công tước nói, đi qua ông ta vào đại sảnh, đi qua cả Houghton cùng tên hầu của em trai anh mình mẩy bám đầy bụi đường và bùn bẩn đang đứng đó.
Anh mang vợ vào phòng ngủ, cẩn thận đặt cô ta xuống giường, duỗi thẳng chân và đôi tay thõng thượt, sửa lại những lớp váy áo cho gọn gàng, đưa tay vuốt đôi mắt mở trừng, chạm vào mái tóc vàng nhạt đẹp đẽ giờ ướt nhẹp và xám xỉn. Rồi anh quỳ bên cạnh giường, cầm lấy một bàn tay cô ta áp lên má mình, và khóc.
Khóc cho cái chết của một tình yêu mãnh liệt và nông nổi đã không thể đem lại sự thoải mái hay bình yên cho người yêu. Khóc cho người phụ nữ anh đã lấy làm vợ với những ý nghĩ quá cực đoan – thà tự sát còn hơn đối mặt với căn bệnh giai đoạn cuối chỉ có vòng tay anh làm chỗ dựa. Khóc cho sự nhu nhược và bội phản của anh. Khóc cho phần con người yếu đuối trong anh.
Cuối cùng anh đứng dậy, biết rằng Armitage và bà Laycock đã đứng sau lưng anh một lúc rồi. Anh quay đi không nói lời nào và bước sang phòng thay đồ vào căn phòng khách hình bầu dục.
Những bước chân đưa anh lại bàn viết, trên đó có một lá thư đã mở. Anh không nên đọc nó, một phần tách biệt trong tâm trí nhắc nhở anh. Nó là thư của vợ anh. Nhưng vợ anh đã chết.
Và anh cúi xuống, không mấy tò mò. Trước khi Houghton và người hầu của em trai anh có cơ hội thông báo, anh đọc được dòng tin về cái chết của Lord Thomas Kent trong một trận ẩu đả vì bài bạc mấy ngày trước.