Chương 3: Hành Trình Về Phương Đông - Chương 3: Trên Đường Thiên Lý

Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đã thay đổi tất cả. Cho đến lúc đó phái đoàn mới công nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan còn có những chân lý cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu. Sự hiện diện của một vị Chân Sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và Sudeih Babu làm phái đoàn phấn khởi tin tưởng rằng cuộc khảo cứu sẽ còn vượt xa hơn điều họ dự tính.

Cuộc tiếp xúc với Sudeih Babu đã khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu để bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á Châu.

Phái đoàn bắt đầu cuộc hành trình nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc đầu, đường sá còn tốt nên sự di chuyển còn nhanh chóng nhưng về sau có những đoạn đường bị ngắt quảng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc đôi khi phải đi bộ qua các eo núi. Sự kiện một nhóm người Âu di chuyển trên những con đường độc đạo, hẻo lánh là một điều chưa hề xảy ra. Các sĩ quan quân lực Hoàng Gia đã hết sức ngăn cản vì lý do an ninh. Mặc dù Ấn Ðộ là thuộc địa của Anh nhưng nhiều địa phương vẫn không hợp tác với chính quyền. Di chuyển qua đây đòi hỏi sự hộ tống của lực lượng quân đội võ trang đầy đủ. Có nhiều vùng ngay cả dân địa phương cũng ít dám qua lại vì có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Ðể đề phòng, phái đoàn đã võ trang cẩn thận nhưng trong suốt thời gian di chuyển không hề có một sự kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được che chở bởi một quyền năng mạnh mẽ vô hình.

Trên đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản của tôn giáo này xây dựng trên chủ trương mở rộng lòng thương (Ahimsa). Tín đồ đạo Jain thực hành lý tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích:

Jainism được thành lập hơn 2000 năm do đức Mahavira, một vị hoàng tử đã từ bỏ cung vàng, điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước chân vào đền, người ta đã thấy ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên kim cương lớn. Trước khi vào đây, du khách phải cởi thắt lưng, giầy dép, nghững vật gì làm bằng da thú, sừng, ngà voi, v.v... Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế vì giáo lý Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì do sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Vì lòng bác ái Ahimsa bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm lì trong đó thì phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.

Ðối với người Âu thì việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích và vô lý nhưng đa số phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin rằng nếu các giới luật mà không giữ được thì không hy vọng gì đi xa hơn trên đường tu học.

Một số giáo sĩ đạo Jain còn "quá khích" hơn nữa. Sau một thời gian tu ở trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống lõa thể. Họ chỉ uống nước suối, ăn trái cây và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi còn ăn cơm gạo, mặc y phục là còn mang nợ xã hội. Còn hưởng những vật dâng cúng của tín đồ là còn mang nợ loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, từ bỏ tất cả, không bận tâm đến bất cứ chuyện gì của thế gian như của cải, vật chất và ngay cả mảnh vải che thân. Ðạo Jain cho rằng xuất gia phải tuyệt tất cả ý niệm sở hữu vì bất cứ gì sở hữu là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến gây chướng ngại cho việc tu hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ để vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà và thú rừng làm bạn. Họ dành tất cả thời giờ để thiền định về ý niệm mở rộng lòng thương đến muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hãi. Các học giả người Âu đã gọi tôn giáo này là phái "Lõa thể" vì quan niệm từ bỏ triệt để này. Ðiều đáng tiếc là danh từ "Lõa thể" thường bị đồng hóa với các sự kiện xấu xa, mọi rợ, thiếu văn minh.

Khi người Anh đến cai trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đã bị bắt giam vì tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống trong rừng không tiếp xúc với xã hội.

Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong tục và tập quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế: Giáo đồ phái này tin tưởng rằng sức mạnh của tình thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên, tình thương phải hết sức tuyệt đối, mục đích của nó không giới hạn vào một hạng người nào riêng biệt mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Ðây là một cải cách hết sức lớn lao vì phong tục Ấn Ðộ vốn rất thiên vị và chủ trương dị biệt giai cấp. Tín đồ đạo Jain tin rằng con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu hay hạ lưu, bình dân hay vua chúa đều được thụ hưởng lòng thương như nhau. Lòng thương chẳng những phải bao la mà còn nồng nàn như tình mẹ con, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm. Lòng thương phải chân thành, thâm thúy phát ra từ đáy lòng, không thể giả dối hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi ban rải tình thương khắp đồng loại còn phải ban rải đến loài vật từ con voi to lớn đến các côn trùng nhỏ nhen. Do đó, họ tránh sát sinh đã đành mà còn không sử dụng bất cứ vật dụng gì do sự giết chóc mà ra. Ðạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh là một thú tánh cần loại trừ nhưng chinh phục bằng tình thương là đường lối duy nhất để giải quyết mọi việc.

Ðạo Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn Ðộ nhưng không đi đến các nơi khác vì gặp phải sức chống đối của Ấn Ðộ Giáo và Hồi Giáo. Lịch sử Ấn Ðộ ghi nhận Hồi Giáo đã tiêu diệt Phật Giáo và đạo Jain một cách hết sức dã man. Hơn nữa, quy luật khắt khe của tôn giáo này không mấy ai theo nổi và các tu sĩ bịt mặt, lõa thể dễ bị người đời ngộ nhận. Có lẽ thế, tôn giáo này chỉ bành trướng trong các vùng hẻo lánh miền sơn cước.

Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân ở đây một thời gian cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lý do nữa là gần đó có một di tích lịch sử quan trọng: Ngôi đền yên lặng.

Ðó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000 năm nay. Trong đền không có hình tượng gì mà chỉ là một căn phòng to lớn, trang nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong lòng bỗng lắng xuống một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền Hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng đã gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Ðạo sĩ khuyên vua nên bỏ ý định chinh phục bằng sức mạnh mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo ra lệnh bãi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái bình, tự trị.

Thời gian trôi qua, đến nay chẳng còn mấy ai biết đến thời đại của Hoàng Ðế này nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua vẫn còn tồn tại. Khi bước chân vào đây, không ai được nói một lời nào mà phải tuyệt đối giữ yên lặng. Lý do ngôi đền không có hình tượng gì là để nói đến cái chân lý tuyệt đối vốn vô hình, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đã giải thích cho phái đoàn:

"Ðền im lặng là nơi chỗ của quyền năng vì im lặng đồng nghĩa với quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng thì họ đã đến chỗ mà tất cả đều là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con người có sức mạnh tư tưởng nhưng vì vô ý thức họ đã để cho nó hao tán. Quyền năng hao tán là Ðộng còn tập trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc với Thượng Ðế. Khi hợp nhất với đấng thiêng liêng ta hợp nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu. Phương pháp duy nhất để hòa hợp với đấng thiêng liêng là tiếp xúc với ngài một cách ý thức, từ bỏ ngoại cảnh để quay về với nội giới vì đấng thiêng liêng ẩn tàng trong tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản ngã, nhận thức sự vô minh, hèn kém của mình và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi đó là tu thân. Người ta không thể dạy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng tự phụ vì chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lý. Ðấng thiêng liêng không nghe các lời cầu xin ồn ào, lập đi lập lại mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân thành của những kẻ đến với Ngài bằng trái tim, sùng kính Ngài bằng tâm hồn và yên lặng. Kẻ nào tiếp xúc với Ngài trong âm thầm sẽ nhận biết quyền năng của Ngài do sự thực hiện các điều mong muốn của họ."

"Nhưng nếu không cầu nguyện theo một sách vở, Thánh Kinh làm sao tín đồ có thể hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi?"

"Minh triết phát sanh từ yên lặng. Thượng Ðế không cần ta phải tuyên dương Ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ gì. Khi một tín đồ thành tâm trong tĩnh lặng, y sẽ hòa hợp tư tưởng với ảnh hưởng thiêng liêng và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận được khi lòng ta vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích mình, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ cõi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới ý thức năng lực trong mình và chung quanh mình. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nẩy nở. Tâm có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu yên tĩnh. Con người có giải thoát các ồn ào, náo nhiệt bên ngoài thì mới đón nhận các hòa âm tuyệt diệu đến từ cõi vô biên. Con người cần khám phá rằng hạnh phúc ở trong tâm mình. Hiện nay phần lớn đều tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc lát thay vì hạnh phúc vô biên. Tất cả phương pháp tìm kiếm bên ngoài đều vô vọng. Con người phải biết quay về nội tâm vì mọi hình tướng, nghi thức đều là sự áp chế."

"Nhưng làm sao tìm thấy điều gì khi ngồi yên lặng?"

"Con người sẽ dần dần ý thức được chính mình. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi một thời gian. Họ sẽ tìm thấy ở mình một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng "Tôn Giáo" kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ý thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự mình tìm thấy câu giải đáp khi họ ý thức thực chất của chính mình và ảnh hưởng cao cả của Thượng Ðế. Chỉ khi đó, mọi sự tìm kiếm ở ngoại cảnh sẽ chấm dứt."

"Những điều ông nói rất hay nhưng nếu không có sách vở chỉ dẫn làm sao con người biết đâu mà tìm để đạt đến trạng thái đó?"

"Ða số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo lý hướng dẫn cuộc đời; do đó, họ dễ bị hướng dẫn lầm lẫn, sai lạc. Phải tự mình suy gẫm và tìm lấy con đường cho chính mình mới là phương pháp đứng đắn.

Con đường giải thoát đòi hỏi can đảm và nỗ lực cá nhân vì không đường nào giống đường nào. Lịch sử cho thấy có biết bao Tôn Giáo rao truyền các chân lý cực kỳ tốt đẹp nhưng đã có mấy tín đồ nghiên cứu tường tận? Ða số đều ỷ lại vào các giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các giáo sĩ còn chưa giải thoát chính mình thì còn cứu độ cho ai nữa? Ðó là lý do Hoàng Ðế Rapoor xây dựng ngôi đền im lặng mà trong đó không có một pho tượng, một hình ảnh hay ngôn ngữ nào để tránh đi vào con đường của các tông phái Ấn Giáo. Thượng Ðế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối, ngôn ngữ, hình ảnh không thể diễn tả được. Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất cả hình tướng, nghi thức, con người mới tự do sống bình an với nhau, hiểu sự liên quan giữa y và những người đồng loại.

Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa người với người nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị. Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngã. Tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát khỏi các thành kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào thì nghĩ mà còn là giải thoát ta ra khỏi các áp lực bắt ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng. Ðây là một chân lý chỉ tìm thấy trong sự yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, hình tướng, ngôn ngữ, các thành kiến dị biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hãi bắt nguồn từ vô minh. Chỉ khi hoàn toàn tự do, con người mới thực sự bình an và giải thoát."

Phái đoàn từ giã vị giáo sĩ coi ngôi đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng đã gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. Hình như có một luồng từ điện vô hình phảng phất quanh ngôi đền khiến ai cũng thấy trong lòng dào dạt một sự bình an khó tả. Lối tu trong yên lặng không còn là một vấn đề trừu tượng, vô ích như họ nghĩ. Quả thật xứ Ấn còn rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và suy nghĩ.