Chương 8: Chương 14 - 15 - 16

Chương Mười Bốn

Mimi

Bình minh đang hiện dần trên sườn đồi. Lại một đêm vô ích ở khu ổ chuột. Họ đã kiểm tra từng người đàn ông, từng phụ nữ và trẻ nhỏ ở những khu vực xác định. Ngày mai họ vẫn sẽ làm những công việc đó, bắt đầu ở khu ổ chuột phía Bắc Jacarezinho. Tinh thần của cả nhóm bắt đầu giảm sút. Mimi không nghĩ là họ sẽ tìm được Jordan. Ít nhất không phải ở Rio. Kingsley đã dựng lên một chương trình tốt, nhưng Mimi có thể nói rằng anh ta đã thất bại.

- Linh tính mách bảo rằng tôi đã đúng, rằng cô bé ấy đang ở đây – Anh ta nói khi họ sải bước đi xuống qua những đường ray tạm bợ ngổn ngang cắt qua sườn đồi. Những con phố chật hẹp vắng tanh, chỉ còn tiếng chó hoang và tiếng gà gáy thi thoảng cất lên.

- Trí tâm thuật... trí tâm thuật nói rằng ngài đã sai, thưa sếp – Mimi nói. Cô biết anh ta rất khó chịu khi cô gọi anh ta như vậy.

Anh ta khạc ra một cái đầu lọc thuốc lá, một chút nước bọt màu nâu bắn ra từ miệng. Cũng ấn tượng đấy, nếu như nó không quá kinh tởm.

- Tôi hi vọng anh sẽ không làm thế nữa – Mimi nói.

- Vậy tại sao không nói với anh em muốn anh làm gì? – Kingsley cười.

Mimi sẽ không hưởng ứng lời chọc ghẹo của anh ta bằng cách trả lời câu hỏi đó. Cô băn khoăn không biết là một Máu Bạc hối cải thì như thế nào – dù nó có nghĩa gì đi nữa. Anh ta vẫn có một người bạn tâm giao phải không? Những quy định tương tự có được áp dụng không? Xét cho cùng, những kẻ Máu Bạc đã làm gì? Bọn họ vẫn cần Máu Đỏ tồn tại chứ? Hay họ chỉ cần sống nhờ cafeine và đường – những thứ mà Kingsley dường như sống dựa vào. Anh ta trông có vẻ mảnh khảnh, nhưng anh ta có thể ngồi ăn một mạch cả tá bánh rán doughnuts.

- Sếp – Ted Lennox gọi – Cô bé này muốn nói chuyện với Force.

Đó là cô bé đã đi theo họ lúc chập tối hôm trước. Chính là cô bé đã được Mimi tặng cho con thú bằng len, món đồ mà bây giờ cô bé đang ôm.

- Cưng đang làm gì mà lại đi một mình thế này? – Mimi hỏi – Đáng lẽ ra em nên ở trên giường chứ. Bây giờ mới là năm giờ sáng.

- Cô ơi. Cô ơi. Cô đang tìm ai đó đúng không? – Cô bé nói bập bẹ bằng tiếng Bồ Đào Nha.

Mimi gật đầu. Các Venator có một vỏ bọc. Nếu có ai đó hỏi họ vì sao lại ở trong những khu ổ chuột, họ sẽ đóng vai những cảnh sát đang đi tìm người mất tích.

- Đúng vậy – Mimi trả lời bằng ngôn ngữ bản địa của cô bé.

- Một cô bé như cháu.

- Sao cưng lại biết? – Mimi hỏi một cách đột ngột. Đây không phải là một phần của kịch bản. Điều tưởng tượng được dựng lên là họ đang đi tìm một kẻ trộm, một tên tội phạm, một tù nhân bỏ trốn, một người đàn ông cao lớn. Không ai biết họ đang đi tìm một cô bé, bởi về điều đó khiến những giấc mơ được thay đổi để đánh lạc hướng họ. Nếu có người biết được Venatoe đang tìm kiếm cái gì, họ chắc chắn sẽ mơ về cái đó, và việc đó sẽ làm cho công việc của Venator trở nên khó khăn hơn – Làm sao cưng biết chúng ta đang tìm một cô bé?

- Bởi vì bạn ấy nói với cháu.

- Ai nói với cưng? Nói với cưng điều gì? – Mimi hỏi gắt gao.

Cô bé lắc đầu, đột nhiên trông có vẻ sợ sệt.

- Em đã kiểm tra cô bé chưa? – Kingsley vừa nghiêng đầu vừa hỏi.

Mimi gật đầu. Đêm đầu tiên khi họ đến đây, cô đã kiểm tra tất cả những đứa trẻ. Chẳng có gì cả. Nhưng cô đã kiểm tra kĩ lưỡng chưa? Hay cô đã quá nương tay. Trí tâm thuật không thể dự đoán trước được – một số người không chấp nhận sự xâm nhập vào ý thức của họ. Nếu họ tỉnh dậy trong khi công việc đang tiến hành, rất có khả năng họ sẽ bị tổn hại, thậm chí khiến họ điên cuồng, mất trí. Hãy xem điều gì đã xảy ra với người được gọi là nhân chứng của họ.

Các Venator rất chuyên nghiệp, cẩn trọng và chưa hề gây thiệt hại cho bất cứ một Máu Đỏ nào cho đến lúc này. Nhưng có lẽ Mimi vẫn không muốn liều lĩnh. Không thể làm vậy với cô bé này. Cô đã làm một cuộc kiểm tra lướt qua và không thăm dò kĩ tiềm thức của cô bé.

Sam lấy ra một bức ảnh từ trong túi quần. Đó là ảnh học sinh của Jordan. Trông cô bé có vẻ lo lắng và nặng nề trong bộ đồng phục.

- Em đã nhìn thấy cô bé này chưa? Có phải cô ấy không?

Cô bé gật đầu, ôm chặt con thú cưng bằng len vào lòng.

- Ừm, em biết được những gì? Em đã theo dõi những đứa trẻ, đúng vậy không? – Kingsley hỏi.

- Im đi!? – Mimi trách. Tim cô bắt đầu đập thình thịch. Có khi nào ngay từ đâu, đáp án cho câu hỏi của họ đã ở ngay trước mắt? Theo họ mỗi bưới đi ư? Những đứa trẻ đã đi theo họ từ khi nào? Chúng đã xuất hiện ngay từ đâu, từ cái đêm đầu tiên. Có phải họ đã bỏ xót điều đó vì Mimi đã quá mềm lòng, quá nhẹ tay khi đáng ra phải kiểm tra cô bé một cách kĩ lưỡng?

- Em chắc chứ? Em có chắc là đã nhìn thấy cô bé ấy không? – Mimi muốn lắc người cô bé, nhưng thực chất là chính cô đang muốn run lên. Cô đã khiến công việc bị cản trở vì nhẹ dạ với một đứa trẻ.

Và từ khi nào một Thiên thần báo tử Azrael có cảm xúc vậy?

Cô bé gật đầu.

- Vâng. Chính là bạn ấy, Sophia – Cô bé gọi Jordan bằng tên thật. Mimi nhận thấy cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng.

Ted ngồi quỳ gối trước mặt đứa trẻ.

- Làm thế nào em lại biết bạn ấy?

- Bạn ấy sống ở đằng kia – Cô bé trả lời – Với bà của bạn ấy. Chúng cháu rất sợ bà ta. Sophia cũng vậy.

- Bây giờ cô bé ấy đang ở đâu?

- Cháu không biết. Họ đã bắt bạn ấy đi.

-Ai cơ?

Cô bé không nói gì.

- Propon familiar (Hãy nói cho bạn bè của bạn) – Mimi nói một cách nhẹ nhàng, với chất giọng trang nghiêm của thánh ngữ - Hãy kể cho bạn bè của bạn – Cô phải dùng đến sự cưỡng chế cho cô bé, nhưng họ cần phải biết sự thật – Sẽ không có điều gì xảy ra với em đâu. Hãy kể cho chúng tôi những gì em nhớ.

- Những người xấu. Một người đàn ông và một người phụ nữ, họ bắt bạn ấy đi – Cô bé nói với giọng đều đều – vào Chủ Nhật.

Các Venator nhìn nhau sửng sốt. Họ đã đến Rio đúng hôm đó.

- Và bà của cô bé ấy... bà ta còn ở đây không? – Mimi hỏi.

- Không. Bà ấy đã bỏ đi vài ngày trước – Cô bé nhìn họ với đôi mắt mở to sợ hãi – Sophia nói rằng sẽ có người đến tìm bạn ấy, cả người xấu và người tốt. Lúc đầu chúng cháu không biết cô chú là người như thế nào, nhưng bạn ấy nói với cháu rằng những người tốt sẽ đi cùng một quý cô xinh đẹp, và... cô sẽ cho cháu con chó đồ chơi – Cô bé nói một cách ngập ngừng.

- Cô bé ấy nói với em chúng ta sẽ đến ư? – Mimi gặng hỏi.

- Khi những người tốt đến, bạn ấy nói phải đưa cho họ thứ này – Cô bé lấy ra một chiếc phong bì từ trong túi áo của mình. Trông nó nhem nhuốc và bẩn thỉu với đầy bụi bặm, nhưng chữ viết tay lại đẹp như chữ in, kiểu chữ vẫn được viết trên những phong bì trắng ngà dùng để công bố hôn nhân.

Bức thư được gửi đến Araquiel.

Thiên thần Phán xét, Mimi biết người này. Anh ta còn được gọi là Thiên thần hai mặt. Một thiên thần mang cả bóng tối và ánh sáng trong mình.

Kingsley Martin.

Chương Mười Lăm

Schuyler

Vẻ mặt của Jack khi cô phá vỡ tấm kính là sự trộn lẫn giữa cảm xúc bất ngờ và lòng kiêu hãnh, nhưng Schuyler chỉ cho phép mình nhìn lướt qua. Cô cần phải ngừng suy nghĩ về anh ấy và tập trung vào việc đang làm. Cô lao ra khỏi căn phòng, bay lên không trung, bám vào giàn mắt cáo rồi nhảy từ mái nhà xuống mặt đất. Cô chạy ra cửa, đang là thời gian giữa các bữa tiệc, đối với khách, cô như một cái bóng màu hồng lướt qua.

Đã quá nửa đêm và lễ hội bắt đầu chìm trong ánh đèn mờ ảo hơn – thời khắc đó trong sự tụ họp không thể quên khi mọi thứ đều là của chung và ngược lại. Không gian tràn ngập cảm xúc náo nhiệt của những vũ công hoang dã khi các ngôi sao Bollywood nhảy điệu simmi và lắc lư thân người, bụng của họ chuyển động mềm mại như những con rắn, hàng trăm tay trống chơi trống gỗ dhol đang tạo nên những nhịp điệu đều đều cuốn hút. Schuyler không thể cảm nhận rõ ràng, nhưng có cái gì đó như điềm chẳng lành về sức thôi miên chứa đựng trong âm nhạc, sự lôi cuốn của nó như mối đe dọa. Việc lắng nghe những âm thanh ấy giống như đang bị cù quá trớn – khi cảm giác nhột nhột chẳng còn vui vẻ gì và trở thành một kiểu tra tấn, còn cái người đang cười nghiêng ngả kia trở nên khó chịu và mất kiểm soát.

Cô chạy vụt qua hàng vũ công đang nhảy điệu bhangra trong tiếng chũm chọe kêu vang rền và làm ngã một trong những người đi cà kheo, gần như bỏ qua một nhóm người cầm đuốc đứng bảo vệ vòng ngoài.

Nhưng bất cứ nơi bào cô đi tới, anh ấy vẫn ở ngay sau cô. Cô nín thở.

Schuyler!

Cô nghe thấy tiếng anh ấy vang lên rõ ràng trong đầu. Jack đang sử dụng trí tâm thuật đối với cô. Như thế thật không công bằng. Nếu như anh ấy gọi to tên cô, có thể cô sẽ tha thứ, nhưng biết rằng anh ấy đang ở trong đầu cô – vẫn dễ dàng như trước kia anh ấy thường làm – thì thật đáng bực mình.

Cô băng qua những người huấn luyện hổ và những người nuốt lửa, qua nhóm quý tộc Châu Âu đang say xỉn vì no căng máu, những huyết linh của họ bị bỏ nằm ngất lịm bên bức tường ven sông. Đây không còn là một bữa tiệc nữa mà là cái gì đó khác. Thứ gì đó quỷ quái và trụy lạc... một buổi liên hoan, tiệc mừng tán dương cái thú vui gớm ghiếc, độc ác và đồi bại. Schuyler không thể không cảm thấy có điều gì dó – hay ai đó – đang lôi kéo mọi người đến sát bờ vực của sự hủy diệt. Và cô vẫn có thể nghe được tiếng bước chân của Jack, nhẹ nhàng, hối hả ngay phía sau cô.

Cuộc rượt đuổi đã thúc đẩy sức mạnh trong cô: chạy thật nhanh, sử dụng năng lực của ma cà rồng và biến hóa chúng theo cách họ chưa bao giờ dùng – có Chúa mới biết anh ấy nhanh đến mức nào! Nhưng cô còn nhanh hơn, cô nghĩ. Tôi có thể vượt trước anh, Jack Force. Cứ thử xem, anh sẽ không bao giờ bắt kịp tôi đâu.

Anh có thể và anh sẽ làm được.

Schuyler đóng tiềm thức của mình lại nhằm thoát khỏi trí tâm thuật, giống như Lawrence đã từng dạy cô. Điều đó có thể giúp cô tách khỏi anh ấy.

Phải có nơi nào đó cho cô trốn. Cô biết rõ nơi này. Cordelia đã từng để cô đứng ở đó cả tiếng đồng hồ khi họ đến thăm quan, và như mọi đứa trẻ, cô đã khám phá hết từng khu đất ngổn ngang của tòa nhà này. Cô biết từng khe hở, từng nơi ẩn náu bí mật – cô sẽ cắt đuôi anh ta ở khu phòng trọ - có rất nhiều căn phòng nhỏ được ngụy trang và những căn hộ bí mật – cô chạy trở lại tòa lâu đài qua lối đi dành cho nhân viên phục vụ.

Trong khi chạy cô gửi tin nhắn của mình qua trí tâm thuật.

Oliver!

Oliver!

Cô cố gắng định vị tín hiệu của cậu ấy – Oliver!

Nhưng con người không hề nhạy cảm với những giao tiếp mờ ảo của trí tâm thuật. Oliver chưa bao giờ đọc được suy nghĩ của cô, chưa nói gì tới nói chuyện trực tiếp với nhau bằng trí tâm thuật. Trong khi họ cố gắng tạo nên một cầu nối tinh thần giúp kết nối ma cà rồng với Conduit, họ đã gặp nhiều vấn đề trong những lần luyện tập của mình. Họ còn trẻ, mà cầu nối lại cần cả một đời người để xây dựng, giống như cầu nối giữa Lawrence Van Alen với Christopher Anderson. Có thể năm mươi năm nữa họ sẽ giao tiếp bằng ngoại cảm với nhau, nhưng chưa phải bây giờ.

Cô cần phải tìm Oliver. Có thể cậu ấy đang lo lắng đến chết đi được. Có thể cậu ấy đang đi đi lại lại quanh phòng tiệc, không màng đến pháo hoa, uống thật nhiều rượu conktail để trấn tĩnh tinh thần. Cậu ấy đã hi sinh quá nhiều khi ở bên cô. Tất nhiên cậu ấy sẽ nói với cô rằng đó là nhiệm vụ của cậu, là số mệnh của cậu khi được sống chết bên cô. Nhưng cô vẫn không thể thôi suy nghĩ rằng cô là gánh nặng đối với cậu ấy, rằng cô đã đem đến quá nhiều phiền toái cho cậu ấy – đã gắn cho cậu ấy vận mệnh phải sống trong sự rượt đuổi không ngừng. Cậu ấy đã trao cho cô tất cả mọi thứ - tình bạn, vận mệnh, cuộc đời của cậu ấy – nhưng tất cả những gì cô có thể đáp lại là trái tim cô. Trái tim mềm yếu, ngốc nghếch, tội lỗi và không đáng tin của cô. Cô căm ghét chính bản thân mình.

Một ý nghĩ khủng khiếp chợt đến: Sẽ ra sao nếu họ bắt Oliver? Họ sẽ không làm hại cậu ấy đâu, cô nghĩ. Họ cứ thử làm thế xem... Nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra với cậu ấy... Cô không muốn nghĩ về điều đó nữa.

Khi cô đang chạy qua dãy hành lang, bất chợt mọi vật đều trở nên tăm tối. Ai đó đã tắt hết đèn của tòa lâu đài. Cô có cảm giác cô biết được ai đã làm điều này.

Được thôi, nhưng cũng như anh, Jack, tôi có thể nhìn được trong bóng tối. Cô tìm thấy cánh cửa tới cầu thang bí mật dẫn xuống tầng hầm, qua khu bếp và đi xuống nhà ngục tối ở tầng thấp hơn, một di tích từ thế kỉ trước. Không mấy người biết rằng khách sạn Lambert được xây dựng trên những tàn tích của cung điện thời xưa, còn ẩn chứa rất nhiều lớp bí mật.

Ôi Chúa ơi, đừng nói là cô vừa giẫm phải một bộ hài cốt. Schuyler nghĩ khi đôi dép xăng đan của cô đạp lên cái gì đó kêu răng rắc một cách khó chịu.

Cô có thể nhìn thấy hình dáng của những bậc thang, mục nát và dốc đứng, đi xuống, cô phải đi xuống... Cô cần phải trốn thoát.

Oliver!

Chẳng có gì.

Cô sẽ phải gửi tin nhắn cho cậu ấy sau dù bằng cách gì đi chăng nữa.

Bởi vì cuối cùng cô cũng đã ở đây, nơi thấp nhất của căn ngục tối, trong buồng giam hiu quạnh, nơi đã nhốt không biết bao nhiêu tù nhân, không biết bao nhiêu linh hồn thống khổ đằng sau những thanh sắt nhà giam này.

Anh ấy sẽ không bao giờ tìm thấy mình ở đây.

Cô cảm thấy choáng váng và mê sảng, toàn bộ cơ thể run lên bần bật một cách mất kiểm soát khi cô bước vào trong.

Rồi cô ngã ngay vào vòng tay người yêu cũ và cũng là người đang truy lùng cô.

Jack Force.

Vòng tay anh ôm cô cứng như thép. Giọng nói của anh ta còn lạnh lẽo hơn không gian xung quanh.

- Anh đã nói rồi, Schuyler, em không phải là người duy nhất biết những bí mật của khách sạn Lambert.

Chương Mười Sáu

Bliss

Một điểm tốt ở những con người thời trang là họ thường không chú ý tới phản ứng của những người khác. Vì vậy, Henry không hề nhận ra sự kích động của Bliss khi anh ta tán gẫu về những tin đồn gần đây ở New York. Đa số các tin tức đều rất buồn tẻ: những tạp chí đã đình xuất bản, những nhà thiết kế đã từ bỏ công việc.

- Tình hình hiện nay rất tồi tệ, chỉ có thể nói là tồi tệ - Henry lắc đầu – Nhưng em biết đấy, cuộc sống vẫn đang tiếp diễn... và khẩu hiệu của chúng ta là KHÔNG BAO GIỜ ĐẦU HÀNG. Vẫn còn rất nhiều công việc ở ngoài kia – Anh ta nói với một cái nhìn thiện chí – Ý anh là, anh có hơi quá khi đòi hỏi ở em, và anh cũng hoàn toàn thông cảm nếu em chưa sẵn sàng...? – Anh ta nhìn cô chăm chú qua cặp kính mắt.

Cảm nhận được sự lưỡng lự của cô, điều anh ta coi như là dấu hiệu của sự thất bại, Henry đi thẳng vào vấn đề công việc, anh ta đặt chiếc kính xuống và cầm chiếc điện thoại BlackBerry của mình lên.

- Đó không phải là việc gì quá khó khăn, chỉ là những việc rất đơn giản để em làm quen lại với công việc. Em biết buổi trình diễn thời trang hằng năm của Muffie Astor Carter cho hoạt động từ thiện chứ? Bà ấy đã đăng cai tổ chức chương trình đó tại khu đất riêng của họ ở East End.

Bliss biết. Mẹ kế của cô đã từng phàn nàn rằng Muffie chưa bao giờ dành cho bà ấy ghế ngồi hàng đầu mặc dù Bobi Anne luôn đặt hàng cả một xa tải những trang phục của buổi trình diễn.

- Em rất thích hợp với buổi trình diễn đó. Em có thể nói với bà ta rằng em sẽ tham gia không? – Henry dỗ ngọt.

- Em không biết... – Trình diễn thời trang. Giờ đây điều đó thật quý giá, thật đời thường biết nhường nào. Sẽ vui mừng biết bao khi được quay trở lại cuộc sống trước đây – những buổi ra mắt, thử trang phục, tán ngẫu với những chuyên gia tạo mẫu tóc và được những nhà thiết kế ca tụng, trang điểm hoàn chỉnh cho bạn, rồi đi tới bữa tiệc – điều đó có nghĩa là cuộc sống ấy vẫn chào đón cô đúng không? Cô đã từng từ bỏ hoàn toàn việc suy nghĩ về điều đó, đã từng cho rằng cuộc sống ấy đã kết thúc rồi, đã từng cho qua những gì đã xảy ra. Nhưng vị khách đã nói gì nhỉ? Không được để ai nghi ngờ. Xét cho cùng, đã một năm trôi qua. Sẽ không ai trách móc khi cô quay trở lại công việc, phải không?

Và đó chẳng phải là cách tốt nhất để làm vơi đi nỗi buồn và sự mất mát, là tìm thấy điều gì đó giúp ta tạm quên hay sao? Và còn điều gì có thể khiến bạn xao nhãng hơn một buổi trình diễn thời trang hoành tráng, ngu ngốc và phù phiếm? Như Henry đã nói, hãy nhìn vào những con người đã hao phí rất nhiều tiền của người khác và đẩy họ đến sự phá sản – chẳng phải tất cả bọn họ vẫn sống như thể chưa có gì xảy ra đó ư? Chẳng phải họ thu được những lợi nhuận từ công việc từ thiện và đi mua sắm ở Hermes trong khi những nạn nhân đã liều lĩnh trong việc đầu tư tài chính lại đang phải tìm đến rượu để quên sầu?

Cô nhớ về một người phụ nữ trẻ góa chồng, vốn là giáo viên trường Duchesne, người đã quay trở lại với công việc giảng dạy sau khi chồng cô ấy đột ngột qua đời. Quay trở lại công việc, quay trở lại cuộc sống cũ... bất chợt việc đó dường như... không thể thực hiện được.

Tống cổ anh ta đi. Vị khách ra lệnh. Ừm, đáp ứng cho Henry những gì anh ta muốn là cách đảm bảo nhất để chắc chắn khiến anh ta ra về. Ngay khi anh quản lí của cô được thông báo rằng anh ta có khách hàng cũ đến tìm, anh ta đã muốn nói rằng anh ta còn có những việc hệ trọng khác nữa. Hỏi thăm sức khỏe của cô có thể chỉ là giả vờ để thăm dò liệu anh ta có thể đăng kí cho cô tham gia buổi trình diễn không?

- Đồng ý – cô nói, hít một hơi thật sâu và thở ra một hơi dài.

- Đồng ý ư? – Henry rướn mày.

- Đồng ý – Bliss mỉm cười.

Sau khi chào tạm biệt người quản lí cũ. Bliss ngồi lại một mình trên chiếc đi văng một lúc. Xét trên khía cạnh nào đó, trong suốt cuộc ghé thăm của Henry, cô đã cảm nhận được sự thay đổi của bản thân mình. Vị khách đã đi rồi. Chiếc ghế sau trống trơn, cho đến chừng nào cô vẫn còn có thể nói. Có lẽ cô đã vượt qua bài kiểm tra. Chính xác là, giống như Elvis, anh ta đã rời khỏi tòa nhà nhưng vẫn để cửa mở. Anh ta đã vô tình trao cho cô chiếc chìa khóa trở về với cơ thể của chính cô, hoặc quên mất không lấy lại nó. Giống như nhân vật ông bố bà mẹ đã để lại chiếc chìa khóa xe Ferrari trên bàn. Giống như một bộ phim cũ mà cô đã từng xem khi còn nhỏ được chiếu trên kênh USA... ngày nghỉ của ai đó. Đứa con đã đâm sầm chiếc Ferrari xuyên qua cửa sổ. Cô sẽ không làm điều gì ngu ngốc, tất nhiên. Đó là cơ thể của cô. Cô chỉ có rất ít thời gian và phải tận dụng nó một cách khôn ngoan.

Cô quyết định đi tắm, thế là cô đi xuống dưới nhà. Có mười phòng ngủ thì mỗi phòng đều có nhà tắm riêng rất rộng rãi, Bobi Anne đã đồng ý để cô tự thiết kế căn phòng của mình. Đó là một không gian rất đẹp mắt: tất cả đều được lát bằng đá cẩm thạch dạng hoa vôi đem lại cảm giác ấm áp và những chiếc đèn chụp chiếu sáng rực rỡ. Cô vặn vòi và xả nước đầy chiếc bồn tắm cổ, đổ vào một lượng lớn sữa tắm có hương thơm mà cô rất thích. Sau đó cô nhanh nhẹn cởi đồ và bước vào bồn, thích thú với bong bóng xà phòng và cảm giác tuyệt vời của làn nước ấm áp tuôn chảy trên lưng.

Sau khi tắm xong, cô lấy một trong những chiếc áo choàng bông của Thổ Nhĩ Kỳ mà bà mẹ kế của cô đã tích trữ trong nhà mặc vào người và chạy xuống căn bếp dưới nhà, yêu cầu đầu bếp làm bữa trưa cho cô. Cô ăn thịt băm trộn pho mai – tái, cái cách nước thịt chảy ra pha trộn với mù tạt Pháp luôn khiến cô cảm thấy thích thú như thể cô là một loài ăn thịt.

Chỉ lúc đó cô mới nhận ra cô không thật sự có cảm giác đói. Là cảm giác của ma cà rồng. Cái ham muốn giết người của ngày xưa đã bị chặn lại. Sự thèm khát đã không còn. Vậy điều đó là sao?

Cô đẩy chiếc đĩa đã ăn sạch trơn ra xa và đưa tay lên vuốt tóc. Cô sẽ phải sắp xếp một cuộc hẹn với thẩm mỹ viện ngay khi có thể. Vị khách muốn cô giữ nguyên hình dáng bên ngoài của cô cơ mà, chẳng phải vậy sao? Giữ dáng là một việc tất yếu đối với con gái của Forsyth Llewellyn.

Vì bố cô là một thượng nghị sĩ của New York, việc chăm chút là không thể tránh khỏi.