Chương 8: Chương 09 - 10

CHƯƠNG 9

Kỳ thi cuối học kỳ đã bắt đầu diễn ra tại trường Duchesne. Không giống như ở các trường bình thường khác, học sinh tại học viện dành riêng cho người giàu này rất háo hức mong chờ kỳ thi, vì nó cũng có nghĩa là lịch học sẽ được giãn ra và nhen nhóm kế hoạch nghỉ lễ ngay sau đó. Bliss ngó qua thời khóa biểu trong lúc vội vã sải bước qua những cánh cửa bằng kính và đồng thau mạ vàng cao gấp đôi cửa thường. Ngày hôm nay cô sẽ bắt đầu kỳ thi với môn Anh văn và Lịch sử nước Mỹ nâng cao. Ngày hôm sau là Tiếng Đức và Sinh học. Môn Luật dân sự sẽ thi vào thứ Tư, thứ Năm trống và đến thứ Sáu thì chỉ còn một bài thi vấn đáp tiếng Pháp nữa là xong.

Khi chạy trên những bậc cầu thang lớn dẫn lên tầng ba, Bliss nhận ra xung quanh mình, các nữ sinh khác đang mặc quần tập yoga, áo phông và đi bốt hiệu Ugg trong khi các nam sinh mặc áo thun dài tay đã bạc màu, quần jeans thủng lỗ và đi giày sneaker (đế mềm).

Chuyện gì thế này? Bliss nhìn lại bộ trang phục theo phong cách hàng ngày của mình: quần jeans cạp cao đóng hộp, ống quần giấu trong đôi bốt kiểu cướp biển có kéo khóa kéo lên tới tận gối, và một chiếc áo len chui đầu hiệu Stella McCartney mặc bên ngoài chiếc áo sơ mi diềm đăng-ten hiệu Derek Lam. Sao những người khác trông cứ như thể mới chui ra từ giường ngủ và mặc vội mặc vàng trong lúc trời chập chạng vậy?

- Hey, Bliss! - Mimi réo gọi tên cô trong lúc đi ra từ thư viện tầng hai.

Bliss ngạc nhiên khi thấy Mimi trong một bộ đồ mà có lẽ cô nàng thậm chí còn không bao giờ thèm ngó tới: Mái tóc vàng buộc túm trong chiếc khăn tay khổ lớn màu vàng xen lẫn xanh dương, mặt mũi thì gần như không trang điểm (thực tế, Bliss còn nhận ra một cái mụn nho nhỏ trên cằm của Mimi). Cô nàng mặc chiếc áo phông quá khổ của đội tuyển lacrosse(27) trường Duchesne, mượn từ ông anh Jack, càng làm nổi bật bộ khung gầy gò; bên dưới là chiếc quần ngủ làm bằng vải bông flannen ôm sát và đi dép lê trông rất ư thoải mái.

(27) Lacrosse: một môn thể thao dùng vợt để đập bóng

- Hey! - Bliss cũng cất tiếng chào lại.

- Không nói chuyện được, tớ muộn giờ thi môn Hóa rồi. - Mimi giải thích trong lúc chạy xuống cầu thang, đôi dép lê của cô nàng phát ra những tiếng lạch bạch trên nền nhà đá hoa cương.

- Cậu vừa mới tới đấy à? - Soos Kemble hỏi trong khi bám theo sát Mimi. Cô ta mặc một chiếc áo thun Oxford quá khổ và legging len đã nhão, còn mái tóc vàng thướt tha giờ được búi lên tạm bợ. Thật khó tin đây chính là cô gái hàng ngày đến trường với mái tóc sấy hoàn hảo, và luôn mặc đồ hiệu trị giá không dưới năm con số.

- Ừ. - Bliss nhún vai. - Sao vậy?

- À, mọi người khác đều ở đây từ lúc bình minh. - Soos ngáp. - Học ôn thi.

Tuyệt thật, Bliss nghĩ thầm. Cô thực sự chưa bao giờ hiểu được mấy cái luật bất thành văn ở ngôi trường này. Trên thực tế, cái vẻ tỏ ra mình là một kẻ thích gạo bài hoặc là một mọt sách luôn là mốt trong suốt các kỳ thi ở Duchesne. Bạn phải tỏ ra như thể bạn lo lắng ôn bài tới đầu tắt mặt tối. Thậm chí ngay cả các ma cà rồng Máu Xanh, những người sở hữu trí tuệ siêu phàm, cũng cần phải học thêm.

OK thôi, Bliss nhủ thầm trong lòng, ngày mai cô cũng sẽ đến trường trong bộ đồ ngủ cũ kỹ nhất mà cô có. Bliss rất ghét cái cảm giác bị cô lập một mình một kiểu như thế này. Nó cứ như thể có ai đó đang loan báo cho toàn trường biết sự thật rằng, khác với những người bạn còn lại trong khối, cô không phải là học sinh của Duchesne từ khi mới học lớp mầm. Chẳng lẽ cô cứ mãi là một kẻ ngoài rìa như thế này? Bliss tự hỏi cô có nên tỏ ra tức giận vì Mimi đã không nói cho cô biết về cái trò ăn mặc “bình dân” này không, nhưng rồi lại nghĩ có lẽ Mimi cũng có nhiều thứ phải lo hơn là ngồi đấy mà khuyên bảo cô phải ăn mặc như thế nào cho hợp mốt thi cử.

Khi Bliss đến phòng thi môn Lịch sử, gần như tất cả mọi người trong lớp đã yên vị chỗ ngồi và lặng lẽ chờ thầy giáo phát đề thi. Bliss chiếm một chỗ ở phía cuối phòng, nhìn quanh quất tìm kiếm bóng dáng Schuyler hoặc Oliver. Cô muốn chia sẻ với họ tin tức về sự trở lại của Dylan. Dù cho Mimi không tin chăng nữa thì Bliss vẫn đoan chắc hai người đó sẽ tin cô.

Nhưng chẳng thấy họ đâu cả.

Rồi Bliss chợt nhớ ra hai người bọn họ đã được đặc cách thi sớm hơn, trước khi rời New York để đi Venice trong hai tuần. Đúng là những kẻ may mắn.

Bliss nhìn xuống tờ đề màu xanh. Câu đầu tiên liên quan đến cuộc hành trình Mayflower, Cuộc hành hương tới Tân Thế giới, và sự thành lập mười ba bang thuộc địa đầu tiên. Vì chính cô đã sống trong thời kỳ đó nên tất cả những gì

Bliss phải làm chỉ là nhắm mắt lại và cuộc sống giữa chốn hoang tàn trước đây hiện ra rõ mồn một trong tâm trí. Đoan chắc mình sẽ đạt điểm cao nhất, Bliss cũng cảm thấy tự tin phần nào. Cô đẩy nhanh tốc độ làm bài, đoạn đứng dậy và nộp bài. Jack Force cũng thi cùng phòng với cô. Cậu chàng nở một nụ cười thân thiện với Bliss khi tiến đến nộp bài ngay sau cô. Cậu giữ cửa mở cho cô, và hai người cùng bước ra ngoài.

- Cậu làm bài thế nào? - Jack hỏi thăm khi họ trên đường tới cầu thang lớn.

- Xuất sắc. - Bliss nói - Nhưng tớ cứ có cảm giác mình đang gian lận, ý tớ là... cậu biết đấy.

Jack gật đầu.

- Tớ hiểu ý cậu mà. Tất cả những gì chúng ta phải làm là nhắm mắt lại, đúng không?

- Cứ như thể chúng ta có “phao” hay cái gì đó tương tự vậy. - Bliss nói.

- Ừm, nhưng chúng ta cũng không nhất thiết phải dùng nó mà. - Jack lẩm bẩm.

- Gì cơ? - Bliss hỏi lại.

- Không có gì. - Jack nhún vai.

Cái nhìn trong mắt cậu bạn trở nên xa xăm. Bliss không biết về Jack nhiều lắm, mặc dù họ hay tụ tập cùng nhau, nhưng đó chỉ vì Mimi lúc nào cũng thích có Jack kè kè bên cạnh.

- Chúc cậu thi cử tốt nhé. - Jack nói, vỗ vỗ vào vai Bliss theo kiểu anh em.

- Cậu cũng vậy. - Bliss gọi với theo.

Bliss nhìn đồng hồ, cô vẫn còn vài giờ trước khi tới bài thi tiếp theo. Có lẽ cô sẽ có đủ thời gian ghé qua căng-tin ăn cái gì đó và rồi cố gắng giành một chỗ trong thư viện, nếu như nó vẫn còn trống.

Trong lúc đang bước xuống cầu thang, Bliss bị một cô gái chặn lại. Cô nhướng một bên mày lên và hỏi:

- Có chuyện gì không?

Bliss nhận ra đó là Ava Breton, cũng đang học năm hai như Bliss. Ava là một Máu Đỏ nhưng rất nổi tiếng trong trường. Gần như tất cả bạn bè của Ava đều là ma cà rồng, nhưng hiển nhiên là cô nàng không biết gì về điều đó. Bliss nhận ra có những vết “chỉ điểm” trên cổ Ava, cho thấy Jaime Kip, cậu bạn trai Máu Xanh của cô nàng, đã chọn cô ta làm thần linh quen thuộc. Thú vị đây.

- Bliss à, tớ hỏi cậu chuyện này được không? - Ava hỏi, vén tóc ra đằng sau tai. Cô nàng đang mặc một chiếc áo phông hiệu American Apparel dài tay và quần soóc tập bóng rổ của bạn trai; bên trong cùng là lớp quần áo lót giữ nhiệt màu xám.

- Tất nhiên rồi.

- Vậy, cậu có biết gì về buổi tiệc mà Mimi và Jack Force tổ chức vào tuần tới không?

Bliss cựa mình ra chiều không thoải mái.

- Tớ...

- Cũng không có chuyện gì đâu. Chỉ là Jaime cư xử hơi kỳ cục về chuyện này. Tớ hiểu là cậu ấy phải đi dự cái Vũ hội tổ chức ở St. Regis cùng ba mẹ cậu ấy, một chuyện đáng ngán ngẩm phải không?! Nhưng vì cậu ấy cũng không thèm mời tớ đến bữa tiệc tổ chức sau đó nên tớ nghĩ có gì đó hơi bất thường trong chuyện này.

- Tớ rất tiếc. - Bliss nói, cảm giác không thoải mái. Cô ghét khi thấy bạn bè bị bỏ ngoài cuộc vui. Cô nhớ lại cuộc sống của mình trước đây - trước khi chịu núp dưới bóng của Mimi. Trong thâm tâm, cô không thích trò loại bỏ bạn bè như thế này. Cư xử như thế thật nông cạn và hợm mình, và rõ là kiểu của Mimi. Nhưng chắc chắn không phải kiểu của Bliss. Có mất mát gì đâu mà phải hẹp hòi như thế? Vũ hội Four Hundred đúng là chỉ dành riêng cho ma cà rồng thật, nhưng buổi tiệc sau đó là dành cho thanh thiếu niên cơ mà. Càng đông thì càng vui chứ sao. Nếu có ai đó muốn tham gia thì cũng đâu tổn hại gì?

- Tớ chỉ là, chuyện này chỉ là... ý tớ là... tớ biết những người khác rồi sẽ nhận được giấy mời. - Ava cắn môi trong lúc tiếp tục nói - và nếu như tớ không có.

- Nó sẽ được tổ chức ở Khu Thương mại, tại Trung tâm Angel Orensanz, vào lúc nửa đêm. - Bliss buột miệng. - Và đó là một vũ hội hóa trang. Cậu cần phải đeo mặt nạ, hoặc đại loại là kiểu hóa trang nào đó thì cậu mới được phép vào trong.

Một nụ cười rạng rỡ hiện ra trên khuôn mặt Ava.

- Cảm ơn cậu, Bliss. Cảm ơn cậu RẤT NHIỀU.

Chết tiệt.

Giờ thì đẹp mặt rồi.

Cô đã mời một Máu Đỏ đến dự tiệc. Mimi sẽ rất bực mình cho mà xem.

CHƯƠNG 10

Vô vọng. Giờ thì mọi thứ trở nên vô vọng thật rồi. Ông ngoại cô hóa ra là một kẻ vô dụng, một ông lão nhát gan chẳng thiết gì ngoài những quyển sách, những điếu xì-gà và rượu của ông ta. Cô đã mong chờ điều gì chứ? Một người thầy, một người dẫn lối đưa đường... một người cha. Một ai đó có thể làm vơi đi gánh nặng đang đè trên vai cô, dù chỉ là trong chốc lát. Lúc này đã là buổi sáng ngày hôm sau, Schuyler đang ở trong phòng khách sạn gói ghém hành lý, đoạn nhớ lại những lời của Lawrence trước khi chia tay.

- Ta xin lỗi, Schuyler. Cordelia đã sai lầm khi gửi cháu đến tìm ta. - Vừa nói ông vừa bước tới chỗ lò sưởi.

- Sự thật là, từ lâu ta đã không còn hứng thú với bất cứ chuyện gì liên quan đến gia tộc nữa rồi. Ta đã rửa tay gác kiếm sau sự kiện xảy ra ở Roanoke. Kể từ ngày đó, bọn họ đã chọn theo Michael, và vẫn luôn như vậy ngay cả trong những chu kỳ về sau. - Ông nói, ám chỉ chuyện các thành viên trong gia tộc Máu Xanh đã chọn Michael và trao ông ta quyền Thủ lĩnh gia tộc khi rắc rối ập đến với họ ở Roanoke, lúc đó có vẻ như Máu Bạc đã quay trở lại. - Và nếu ta không nhầm thì tới tận ngày hôm nay, họ vẫn giữ nguyên lựa chọn đó, chỉ có điều giờ Micheal đã mang tên mới là Charles Force.- Lawrence lắc đầu. - Khi cậu ta quay lưng lại với gia đình và chối bỏ cái tên Van Alen, ta đã thề rằng ta sẽ không bao giờ quay về với gia tộc nữa. Than ôi! Cháu đã mất công vô ích rồi, Schuyler. Ta giờ chỉ là một lão già. Và ta muốn sống cho tới hết cuộc đời bất tử này trong thanh bình. Ta chẳng thể giúp cháu điều gì được.

- Nhưng Cordelia đã nói là.

- Cordelia đã đặt quá nhiều niềm tin nơi ta, lúc nào cũng vậy. Chìa khóa đánh bại Máu Bạc nằm ở Charles và Allegra, chứ không phải ở ta. Chỉ có Thiên thần Thanh Khiết mới có thể cứu Máu Xanh thoát khỏi bọn Máu Bạc Tàn Bạo. Ta xin lỗi vì chẳng giúp gì được. Ta đã thề từ bỏ gia tộc mãi mãi khi ta chịu đi đày rồi.

- Hóa ra Charles Force đã đúng về ông. -Schuyler nói, giọng run run.

- Ý cháu là sao? - Lawrence hỏi lại trong cảm giác mơ hồ.

- Ông ta nói ông không bằng một nửa người đàn ông mà Cordelia mong muốn. Rằng cháu sẽ chỉ tìm được sự thất vọng và bối rối nếu quyết đi Venice.

Lawrence lùi lại phía sau như thể ông vừa nhận một cú đấm từ chính diện. Trên khuôn mặt ông hiện lên vô số những cung bậc cảm xúc: xấu hổ, giận dữ, kiêu hãnh; nhưng dù là gì, ông vẫn chỉ im lặng. Cuối cùng, ông đột nhiên xoay lưng lại phía cô và bỏ ra khỏi phòng, đóng sầm cánh cửa lại phía sau lưng.

Hừm. Vậy đấy. Schuyler kéo khóa túi hành lý, lẳng nó qua vai và bước ra ngoài về phía thang máy, nơi Oliver đang đứng chờ. Cậu không hề cất tiếng chào hay chúc cô buổi sáng tốt lành. Schuyler biết nếu cô muốn, chỉ cần vài khắc cô đã có thể thâm nhập ý nghĩ cậu. Suy nghĩ của Oliver lúc nào cũng “tỏa sóng” như thể một cái đài thu phát vệ tinh. Nhưng Schuyler chưa bao giờ làm vậy. Cô không nghĩ rằng xâm nhập đầu óc người khác là đúng. Hơn nữa, chẳng cần có siêu năng lực, Schuyler cũng hiểu cậu bực mình với cô vì đã không gọi lại cho cậu đêm hôm qua.

Hôm qua, tài xế riêng của Lawrence đã đưa cô về khách sạn vào lúc rất khuya. Schuyler nhận được rất nhiều tin nhắn đầy lo lắng và quan tâm từ cậu bạn trên cả máy di động lẫn hộp thư thoại trong phòng khách sạn. Đáng lẽ ra cô định gọi lại cho cậu ngay lúc đó, nhưng vì cảm thấy đã quá khuya nên cô không muốn đánh thức cậu dậy.

- Tớ cứ nghĩ cậu chết rồi. - Oliver lên giọng buộc tội.

- Nếu đúng vậy thì cậu có thể cầm iPod của tớ.

- Hừ. Cái đó lởm phát khiếp. Nó thậm chí còn không xem được video.

Schuyler cố nén lại một nụ cười. Cô biết Oliver không thể giận cô lâu được.

- Dù sao thì, cậu cũng đã lỡ mất chương trình phát sóng lễ trao giải thưởng âm nhạc Châu Âu. Chương trình đó đúng là vui nhộn kinh khủng. David Hasselhoff chiếm đóng ở tất cả các hạng mục đề cử.

- Tệ thật đấy.

- Mà bố tớ đi trước rồi, ông ấy bay chuyến sớm hơn. Phải về sớm để tham dự cuộc họp cổ đông nào đó. - Oliver cằn nhằn.

Schuyler liếc sang phía cậu bạn. Bờm tóc mái màu hạt dẻ che mất vầng trán cậu, và đôi mắt nâu nhạt ấm áp, pha một chút màu lục và hoàng ngọc, đang chan chứa lo lắng và quan tâm. Schuyler cố gắng kiềm chế bản thân, ngăn những ngón tay muốn vươn ra chạm vào cổ cậu. Một cái cổ trông thật yếu đuối và mời mọc làm sao. Gần đây Schuyler bắt đầu cảm nhận một khao khát mới đang bùng phát trong huyết quản cô: khao khát được “uống”. Cơn khát rền rĩ một cách chậm rãi, như một điệu nhạc từ phía đằng xa mà bạn thậm chí còn không nhận ra, nhưng thi thoảng nó lại bùng lên dữ dội, không gì át đi được. Cô nhận ra bản thân mình đang bị hút về phía Oliver theo một cách hoàn toàn mới, khiến cô đỏ mặt mỗi khi nhìn cậu.

Chuyện này cũng gợi nhắc Schuyler về ông bố người trần của cô - người vốn là thần linh quen thuộc loài người của mẹ cô, nhưng rồi mẹ đã lấy vị thần linh quen thuộc ấy làm chồng, bất chấp luật lệ của gia tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử Máu Xanh, ranh giới giữa ma cà rồng và người trở nên mờ nhạt, và kết quả của nó chính là Schuyler. Một đứa con lai nửa người nửa ma cà rồng. Dimidium Cognatus.

Schuyler cũng chỉ mới khám phá ra bí mật về xuất thân của mình vài tháng trước, nhưng chỉ tới tận bây giờ cô mới hiểu rằng dòng máu đang chảy trong người cô chính là số phận của cô. Chính dòng máu ấy đã tạo nên vô vàn mạch máu phức tạp ẩn bên dưới làn da của cô. Và lúc này, máu đang gọi máu. Máu của cô đang gọi máu của Oliver...

Schuyler chưa bao giờ nhận ra cậu bạn thân nhất của mình trông mới đẹp trai làm sao. Da cậu thật mềm mại. Cô muốn với tay chạm vào điểm dưới yết hầu của cậu biết bao, rồi hôn vào chỗ đó và rồi, có thể, cắm những chiếc răng nanh vào làn da nơi đó... và uống...

- Vậy hôm qua cậu đã ở chỗ nào thế? -Oliver cất tiếng, phá vỡ dòng suy nghĩ củaSchuyler.

- Chuyện dài lắm. - Schuyler đáp, đúng lúc cửa thang máy mở ra và cả hai bước vào trong.

Trong lúc ngồi trên chiếc taxi gỉ sét chạy dọc qua các con phố rải cuội để đến cái sân bay bé tin hin của thành phố, Schuyler đã kể lại mọi chuyện cho Oliver, người lúc này đã biến thành một thính giả nhiệt tâm.

- Khỉ thật! - Oliver nói - Nhưng biết đâu một ngày nào đó ông ấy lại đổi ý thì sao.

Schuyler nhún vai. Cô tự biện hộ cho bản thân, rằng cô đã làm đúng như những gì bà ngoại dặn dò, nhưng cô chẳng thể làm được gì hơn một khi đã bị từ chối. Mà Schuyler thực sự không nghĩ rằng cô còn có thể làm thêm được bất cứ điều gì nữa.

- Có thể là vậy, mà cũng có thể không. Thôi, đừng nói về chuyện này nữa. - Cô thở dài.

Chuyến bay tới Rome bị hoãn, nên cả hai giết thời giờ bằng cách lượn lờ qua các cửa hàng lưu niệm miễn thuế. Oliver cười nhăn nhở khi chỉ cho Schuyler một tờ tạp chí trông khá bắt mắt của Ý. Schuyler mua vài cuốn, thêm một chai nước và vài thanh kẹo cao su để chữa ù tai khi máy bay cất cánh và hạ cánh. Đang đứng xếp hàng chờ thanh toán thì Schuyler chợt phát hiện ra một đống mặt nạ kiểu Venice xếp thành chồng trên quầy. Mặc dù còn mấy tháng nữa mới tới lễ hội Carnival nhưng vào thời điểm này, trên đường phố Venice đã bắt đầu tràn ngập những người bán rong vỉa hè chào bán mấy thứ như thế này. Schuyler quả thực hiếm khi để ý tới mấy thứ đồ lặt vặt rẻ tiền, nhưng trong đống mặt nạ nằm trên quầy có một chiếc đã thu hút được sự chú ý của cô.

Đó là một chiếc mặt nạ ôm toàn bộ khuôn mặt, chỉ chừa lại hai con mắt. Nó được làm từ loại sứ tốt nhất, bên trên mặt nạ đính những hạt cườm trang trí bằng vàng và bạc.

- Nhìn này. - cô nói trong khi tay cầm chiếc mặt nạ giơ lên cho Oliver xem.

- Cậu mua cái thứ lòe loẹt này làm gì? -Oliver hỏi.

- Tớ cũng không biết nữa. Dù sao tớ cũng chẳng có cái gì gọi là quà kỷ niệm Venice, thế nên tớ sẽ mua nó.

Chuyến bay tới Rome đã đủ kinh khủng khiếp rồi, vậy mà chuyến bay tới New York thậm chí còn tệ hơn: máy bay lắc lư nhiều đến nỗi Schuyler đã nghĩ cô sẽ phát điên lên mất vì hai hàm răng cứ liên tục va vào nhau mỗi lần máy bay nẩy lên hạ xuống. Cho tới khi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy được bầu trời New York, Schuyler bỗng cảm nhận được một đợt sóng tình cảm dâng trào, chan chứa tình yêu đối với thành phố quen thuộc, nhưng cũng đượm chút thê lương vì biết rằng chẳng có ai chờ cô ở nhà, ngoại trừ hai người giúp việc trung thành mà giờ đã trở thành những người bảo hộ hợp pháp của cô, theo ý nguyện của Cordelia. Thôi thì ít nhất vẫn còn có Xinh Đẹp. Con chó không chỉ là con vật cưng của cô, mà còn là người bạn trung thành và là người bảo vệ của cô nữa. Xinh Đẹp cũng có chân đóng góp trong sự biến đổi, nó chứa một phần linh hồn của Cordelia đã chuyển hóa và lưu lại ở thế giới này để bảo vệ Schuyler cho đến khi cô có thể kiểm soát được toàn bộ sức mạnh của mình. Suốt mấy tuần rồi, cô nhớ nó quá.

Hai người xuống máy bay và di chuyển tới phòng chờ để lấy hành lý. Lúc nàycả Schuyler và Oliver trông thực sự rã rời sau chuyến bay dài. Gần mười lăm tiếng đồng hồ bay liên tục khiến cả hai trông thật tiều tụy. Họ về tới New York lúc trời đã nhá nhem tối. Cả hai bước ra khỏi khu vực sân bay và bắt gặp ngay một lớp tuyết mỏng trên lề đường. Vậy là đã sang tuần đầu tiên của tháng Mười Hai. Cuối cùng thì mùa đông cũng đã tới thật rồi.

Oliver tìm thấy xe của nhà cậu và bác tài xế đang vẩn vơ bên lề đường, đoạn dẫn Schuyler về phía chiếc Mercedes Maybach màu đen. Khi đã yên ổn trên chiếc ghế ngồi bọc da ấm áp trong xe, Schuyler thầm cảm ơn các Thánh thần đã đem Oliver tới cho cô. Tài sản (kếch sù) của gia đình cậu tuyệt nhiên rất hữu dụng trong những lúc như thế này.

Hai người ngồi yên lặng trên suốt chặng đường về thành phố, mải mê đeo đuổi những suy nghĩ của riêng mình. Đường cao tốc vắng xe nên chỉ sau nửa tiếng họ đã về tới Manhattan. Chiếc xe lái thẳng qua Cầu George Washington và tiến vào phố 125, rồi rẽ xuống khu Riverside và đậu lại trước cửa dinh thự Van Alen ở góc đường 101 và Riverside.

- Chà, tới nhà tớ rồi. - Schuyler nói. - Cám ơn cậu một lần nữa Ollie, về tất cả. Giá mà mọi chuyện với ông ngoại thuận lợi hơn thì tốt biết bao.

- Ờ, đừng bận tâm. „Bảo vệ và phục vụ’ làmotto (câu nói ưa thích, phương châm) của tớ mà. - Oliver rướn người định hôn vào má cô như cậu vẫn thường làm, nhưng đúng phút cuối cùng Schuyler quay đầu lại, khiến mũi của hai người va vào nhau.

- Oops. - Schuyler kêu lên.

Oliver cũng thấy ngại ngùng xấu hổ; rồi thay vì hôn tạm biệt như thường lệ, họ ôm nhau trong bầu không khí chia tay ngượng nghịu.

Có chuyện gì với cô vậy? Oliver là bạn thân nhất của cô cơ mà.

Tại sao cô lại có lối cư xử đáng xấu hổ như thế chứ? Schuyler đang định mở cửa xe thì nghe tiếng Oliver hắng giọng. Cô liền quay lại nhìn cậu.

- Cậu định nói gì à?

- À, ừm, tớ đoán là tối nay cậu sẽ tới chỗ đó hả? - Oliver hỏi trong lúc gãi gãi cằm.

- Chỗ đó? - Schuyler chớp mắt.

- Cái chỗ, à, Vũ hội Four Hundred ý. - Olvier nói, đảo mắt và giơ ngón tay lên làm thành dấu ngoặc kép trong không khí, vẻ mặt ra chiều sợ hãi hơi có phần phóng đại. - Thì cái cuộc liên hoan tưng bừng của mấy con đỉa hút máu ấy.

- Ồ, nhớ ra rồi. - Schuyler gần như đã quên hẳn về buổi vũ hội mà cô buộc phải đến tham dự với tư cách là một thành viên của Ủy Ban; dù rằng Schuyler vẫn còn quá trẻ để được giới thiệu chính thức ở Vũ hội. Không như Mimi và Jack Force.

Jack Force. Suốt mấy tuần qua, Schuylerđã phải ghìm nén tình cảm dành cho người ấy, nhưng ý nghĩ về Vũ hội Four Hundred đã lôi kéo hình ảnh cậu trở lại, ám ảnh tâm trí cô. Dáng người cao ráo, gương mặt đẹp trai mê hồn, mái tóc vàng và làn da lúc nào cũng sáng lên dưới ánh mặt trời, cả đôi mắt xanh lục bảo cương nghị và nụ cười rạng rỡ khoe hàm răng trắng đều, sáng lóa.

Jack chính là người đầu tiên tỏ ý nghi ngờ về nguyên nhân ẩn sau cái chết của Aggie, bất chấp thực tế là mấy người trong Ủy Ban không hề muốn tin vào điều đó. Và chính Jack là người kiên quyết tìm ra chân tướng sự thật, cậu cũng là người mà Schuyler đã tìm đến sau khi bị tấn công. Lúc đó cậu đã an ủi cô rất nhiều, và rồi cuối cùng họ đã hôn nhau. Ký ức về nụ hôn của Jack vẫn còn hằn dấu trên môi cô. Cho dù nhắm mắt lại, Schuyler vẫn có thể ngửi thấy mùi hương của Jack - mùi vải áo mới giặt sạch sẽ và tươi mát, thoang thoảng chút nước hoa dùng sau khi cạo râu có hương vị của rừng.

Jack Force...

... Cũng chính là người đã quay lưng lại với cô khi cô lầm tưởng bố cậu là một Máu Bạc.

Schuyler tự hỏi liệu Jack đã có bạn hẹn cùng đi dự vũ hội chưa, và nếu có thì đó là ai? Cô bỗng cảm nhận được một ngọn lửa ghen tuông bùng phát dữ dội trong lòng mình khi nghĩ về hình ảnh một cô gái khác trong vòng tay Jack.

- Cậu có muốn đi với tớ không? - Schuylerquay sang hỏi Oliver; cô thậm chí còn không có chút ý niệm nào về y phục phải mặc hay bạn hẹn cùng tham dự vũ hội cho tới khi Oliver đề cập tới chuyện này.

Oliver đỏ mặt ngượng ngùng; trông cậu thật đau khổ.

- Chỉ có, ừm, ma cà rồng được mời thôi. Đó là luật rồi. Không một thần linh quen thuộc loài người hay Conduit nào được phép tới đó.

- Ôi, tớ xin lỗi, tớ không biết. - Schuylernói - Vậy có lẽ tớ cũng không đi nữa.

Oliver nhìn ra ngoài cửa xe, lúc này tuyết đã phủ kín các nóc nhà và vỉa hè, trông xa xa tưởng chừng như một lớp pha lê trắng tinh khôi.

- Cậu nên đi. - Oliver nhẹ nhàng nói. - Cordelia chắc chắn sẽ muốn cậu tới đó.

Schuyler hiểu những lời của Oliver là đúng. Giờ đây cô là thành viên duy nhất còn lại của nhà Van Alen ở New York. Cô phải đi để đại diện cho gia đình mình.

- Được rồi, tớ sẽ đi. Nhưng tớ sẽ sớm rời khỏi đó và có thể chúng ta sẽ hẹn gặp nhau sau đó.

Oliver mỉm cười buồn bã.

- Chắc chắn rồi.