Chương 76: Xóa tan hoài niệm đối diện với tương lai

Part 1:

– Giữa tháng 12, năm 1546, Lịch Đại lục.

Thủ đô Hoàng gia giờ đã hoàn toàn bao phủ trong tiết trời mùa đông, và đã có một chuỗi ngày lạnh đến nỗi có cảm tưởng như tuyết có thể rơi bất cứ lúc nào. Vào một buổi sáng nọ khi tôi thật sự không muốn rời khỏi chiếc chăn ấm áp của mình chút nào.

“Anh có một số việc quan trọng cần giải quyết tại thành trấn ngay trong ngày hôm nay…” – tôi lên tiếng, và đề cập đến chủ đề đó trong khi đang ăn sáng cùng với 4 vị hôn thê của mình như thường lệ. “Nếu có một người phụ nữ đi cùng thì sẽ rất có ích. Vậy một trong các em có thể giúp anh không?”

“Là công việc sao? Nghe chẳng có vẻ gì là anh ra ngoài để dạo chơi cả.” – Liscia đại diện cho nhóm hỏi tôi, và tôi gật đầu cùng với đó là một nụ cười khổ.

“Buồn thay, chính là nó đấy. Lần này là một vấn đề khá quan trọng, nên anh cần phải tự mình ra ngoài.”

“Em hiểu rồi… em có thể đi được. Mọi người thì sao?” – Liscia cất tiếng hỏi, chuyển chủ đề sang 3 người còn lại. Có vẻ như cô ấy đã có được phẩm cách của vị Đệ nhất Vương hậu, mang được tất cả những người khác tập hợp lại dưới trướng mình.

Roroa là người đầu tiên giơ hai tay lên làm thành hình chữ X trên đầu. “Rất tiếc nhưng chị loại em ra nhé. Chồng yêu đã nhờ em đi thương lượng với bên Thương hội rồi.”

“Về vấn đề biến các nhà buôn nô lệ thành công chức nhà nước, phải không?” – Liscia hỏi.

“Đúng ạ. Trước đó chồng yêu đã biến những người buôn sắt vụn thành công chức nhà nước và để họ làm việc trong xưởng tái chế, hay đại loại giống như vậy, nhưng lần này thì không dễ dàng như thế. Những người buôn sắt vụn giống như mấy người nhặt ve chai vậy, thế nên họ không phải là một phần của hội nào cả. Mặt khác, những nhà buôn nô lệ, mặc dù có thể họ bị xem thường, nhưng họ thật sự, đã đăng kí làm thành viên của một hội. Nếu chúng ta kéo họ ra khỏi hội và đặt họ dưới sự kiểm soát của chính quyền, điều đó sẽ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường nô lệ.”

Nói đoạn Roroa cầm lọ muối lên, rồi cô ấy tiếp tục.

“Nếu là sắt hay muối, thì đã có một vài tiền lệrồi, nhưng em chưa từng nghe đến việc một người có thể gây ra tình trạng lũng đoạn thị trường nô lệ trước đây cả. Nô lệ không phải là thứ mà ta có thể sản xuất cục bộ ra để phục vụ cho nhu cầu địa phương. Lẽ dĩ nhiên, nô lệ cũng có thể đến từ những quốc gia khác nữa. Nhưng nếu chúng ta quốc hữu hóa việc buôn bán nô lệ, chúng ta cũng sẽ cần phải ngăn chặn lượng nô lệ đổ về đây từ những quốc gia khác. Khi trở thành một công chức nhà nước, nguồn thu nhập của họ sẽ ổn định, nhưng họ sẽ không thể nào kiếm tiền nhanh chóng được nữa. Đó là lý do vì sao những nhà buôn nô lệ muốn làm ăn lớn sẽ bỏ sang những quốc gia khác. Và chắc chắn cũng sẽ có một số người phản đối nữa.”

“Anh đã sẵn sàng đón nhận những lời phản đối về việc đó rồi,” – tôi nói.

Tôi không có vấn đề gì với những nô lệ phạm tội bị kết án lao động khổ sai, nhưng tôi muốn đặt dấu chấm hết cho cái kỉ nguyên nơi mà phụ nữ và trẻ em bị bán rẻ để bớt đi miệng ăn, nơi mà định mệnh đã an bài rằng những đứa trẻ được sinh ra bởi nô lệ cũng sẽ là nô lệ. Đó không chỉ đứng theo góc nhìn nhân đạo, mà về tổng quan, điều đó còn giúp cho đất nước trở nên thịnh vượng hơn.

Tuy vậy, Roroa, người được giao nhiệm vụ thương lượng, lại mang một vẻ mặt tàn nhẫn. “Em biết mục đích của anh là để cắt giảm bớt cái chế độ nô lệ này, chồng yêu à… nhưng em không chắc là chỉ cần giải thoát được những nô lệ phạm tội và nô lệ kinh tế trong đất nước này là xong đâu. Đó là cả một vấn đề nan giải đấy.”

“Khó khăn đến vậy sao?” – tôi hỏi.

Roroa liền lắc đầu. “Em sẽ làm được. Dù sao thì em vẫn muốn thấy cái thế giới sau thời kì nô lệ mà anh đã kể cho em nghe. Nơi mà ai cũng có thể kiếm được tiền, ai cũng được tiêu xài tiền, mà tất cả mọi người đều có thể tác động đến nền kinh tế… Đó mới là cái thế giới mà em muốn thấy.”

Tôi đã kể cho cô bé lanh lợi Roroa này một chút về lịch sử của nền kinh tế tại thế giới của tôi. Tôi đã kể cho cô ấy nghe về cái kỉ nguyên của cuộc cách mạng công nghệ nơi hàng hóa bắt đầu được sản xuất hàng loạt. Nơi có một lượng cầu giúp cho các thị trường bán được hàng hóa, và nhờ thế đã dẫn đến việc các nô lệ không có tài sản đã được thả tự do nhằm mục đích xây dựng cái thị trường đó.

Hiển nhiên, tôi biết sẽ có người chiến đấu dưới lý tưởng rằng tất cả mọi người cần phải bình đẳng. Nhưng tôi không thể phủ nhận những nỗ lực không biết mệt mỏi của nô lệ chiến đấu vì tự do của mình, hay nỗ lực của những con người mong muốn họ được tự do. Tuy vậy, dù là hệ thống nào đi nữa, thì thứ quyết định luôn luôn là cái hệ thống đó có phù hợp với thời đại mà hệ thống đó tồn tại hay không.

Cuộc chiến giữa vùng phía Bắc và phía Nam Hoa Kỳ được gọi là một cuộc chiến tranh giải phóng, nhưng sự thật là phía Bắc đã nắm giữ lý tưởng trả tự do cho nô lệ nhằm mục đích tập hợp được sự ủng hộ chống lại lực lượng phía Nam, nơi bao gồm rất nhiều địa chủ. Thứ đã từng bị gọi là một lý tưởng không thực tế đã hoàn toàn làm chủ vào thời điểm lúc đó nhờ vào sự phù hợp với tình hình thực tế.

Ngược lại, cho dù mộtlý tưởng có tuyệt vời đến đâu, nếu không gặp thời, chúng cũng sẽ bị con người giẫm đạp lên mà thôi.

Cuối cùng thì, vẫn phải phụ thuộc vào thời điểm mà chúng ta sống. Ý tôi là, cho dù chế độ nô lệ có chấm dứt đi nữa, chúng ta vẫn sẽ có mâu thuẫn giữa giới tư bản và giới lao động chờ đợi chúng ta ở kỉ nguyên tiếp theo. Tuy vậy, trong câu chuyện mà tôi đã kể cho cô ấy nghe, Roroa có vẻ như đã thấy được cái ranh giới mới đó.

“Có thể sẽ hơi nặng gánh một chút, nhưng nếu chúng ta cùng sánh bước với Đế quốc, chuyện này hoàn toàn có thể làm được,” – cô ấy nói. “Nếu phân nửa lãnh địa được cai trị bởi loài người trên Đại lục này hướng đến việc cắt giảm chế độ nô lệ, sẽ rất là khó khăn để đẩy lùi được chúng ta. Và rồi, khi xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, mặc dù điều này trái ngược với cái nguyên nhân và hậu quả từ câu chuyện của anh, nhưng chồng yêu à, lúc đó công nghệ sẽ phải phát triển lên để lấp vào lỗ hổng đó.”

“Đúng vậy” – tôi nói. “Anh đã vạch ra được một con đường hướng đến việc đó rồi. Em có thể an tâm để mọi chuyện cho anh.”

“Em trông cậy cả vào anh đấy. Em cũng sẽ làm tất cả những gì có thể.”

Tôi gật đầu. “Anh cũng trông cậy cả vào em đấy.”

“Mwahaha. Nói lại cho em nghe lần nữa đi.”

Roroa và tôi cùng khóa tay nhau thật chặt. Thực sự tôi sẽ phải trông cậy vào Roroa để giải quyết mặt trận kinh tế.

Giờ thì, nếu Roroa đã không thể tham dự được hôm nay, vậy thì Aisha với Juna thì sao nhỉ?

“Em xin lỗi khi phải nói ra điều này, nhưng em sắp có một cuộc họp về chương trình ca nhạc tiếp theo của bọn em rồi, nên em không thể đi cùng với anh được,” – Juna nói.

“E-em được nhờ tham dự buổi huấn luyện tân binh rồi…” – Aisha nói. “Tất nhiên, thưa Bệ Hạ, nếu anh nhất định cần em phải đi theo, em sẽ gạt hết mọi chuyện sang một bên và ưu tiên đi với anh.”

“À không, không nhất thiết phải vậy đâu,” – tôi nói. “Hm… Nhưng mà…”

Mình thật sự không muốn mang theo quá nhiều tùy tùng lần này.– Nếu tôi mang theo quá nhiều người, tôi sẽ khiến những nhóm khác đề phòng. Nhưng tôi cũng không cảm thấy thật sự an toàn nếu không có cận vệ bên cạnh. Để xem nào, dù sao thì Liscia cũng sẽ đi với tôi mà.

Dù vậy Liscia thiên về kỹ năng chiến đấu hơn là một cận vệ thông thường.

Lực lượng Hắc Miêu đang phải xử lý những hoạt động bí mật ở rất nhiều quốc gia khác nhau, thế nên họ gần như không thể có dư người để làm cận vệ. Nếu có thể, tôi rất cần Aisha, người có kĩ năng chiến đấu mạnh nhất, hay Juna, người cũng có khả năng thu thập tình báo, đi cùng với chúng tôi. Trong khi tôi vẫn đang còn nghĩ ngợi về chuyện đó thì…

“Thưa Bệ Hạ, thần có thể đưa ra một gợi ý cho Người không?” – vị trưởng hầu gái Serina, người vẫn đang đứng trong tư thế sẵn sàng cạnh bức tường, lịch sự cúi người xuống.

“Serina? Cô có gợi ý gì về chuyện này ư?” – tôi hỏi.

“Vâng. Nếu Người đang tìm cho mình một cận vệ, có một người mà thần muốn gợi ý cho Người.”

“Ai có thể làm được việc đó vậy?” – tôi hỏi tiếp.

“Vị thầy huấn luyện đặc biệt của Bệ Hạ, Ngài Owen.”

“Urgh… Lão già Owen sao…”

Cô ta đang nói đến vị lão tướng và là người đứng đầu Nhà Jabana, Owen Jabana. Ông ta là một lão già nhiệt huyết có tính cách khá nghiêm túc và thành thật theo hướng nhiệt tình thái quá. Tôi rất thích cái tính cách sẵn sàng bày tỏ ý kiến của ông ta và đã phong ông ta làm người cố vấn và thầy dạy riêng của tôi.

Quả thực, ông ta là một chiến binh rất đáng tin cậy, và với cái vị trí của ông ta hiện tại, ông ta sẽ chẳng có việc gì nhiều để làm khi mình ra ngoài. Dù vậy ông ta lúc nào cũng ồn ào, mình không cho là ông ta sẽ phù hợp với những công việc bí mật bên ngoài.

Trong khi tôi vẫn đang xem xét cái ý kiến này, Serina lại tiếp tục. “Người cũng nên mang Carla của Quân đoàn Hầu gái theo cùng nữa.”

“Huh? Tôi ư?!” – Carla đang đứng cạnh bên Serina, ngạc nhiên thốt lên.

“Carla tuy được thu nhận vào Quân đoàn Hầu gái, nhưng cô ấy cũng là nô lệ của Bệ Hạ,” – Serina nói. “Vào những thời điểm giống thế này, Người đáng ra phải dùng cô ấy làm khiê – bắt cô ấy làm việc như ngựa chứ.”

“Chị đang muốn nói là ‘khiên chắn’ thì có?!” – Carla phản ứng. “Mà khoan đã, cho dù chị đã sửa lại thành ‘làm việc như ngựa’, thì nghe cũng chẳng tốt hơn tí nào cả!”

Serina liền nắm cây roi da dùng để huấn luyện hầu gái và quất một cái.

“Ah! Rõ, thưa quý bà! Em sẽ phục vụ với tất cả lòng chân thành và nhiệt huyết ạ!” – Carla liền hối hả cúi chào.

Cô ấy hoàn toàn bị thuần hóa luôn rồi sao…

“Thôi thì, Carla, nhờ cô vậy.” – tôi nói.

“R-rõ, thưa chủ nhân,” – cô ấy đáp.

Vậy là lúc này, mọi chuyện đã được quyết định, 4 người Liscia, Owen, Carla, và tôi sẽ cùng đến thành trấn một chuyến.

Chỉ mới đưa ra quyết định thôi mà tôi đã cảm thấy đuối rồi.

Và thế là, chúng tôi xuất hiện ở thành trấn Parnam.

Liscia, Owen, Carla, và tôi đang dạo bước ở phố mua sắm vào giữa trưa. Vì chúng tôi đến đây trong bí mật, nên chúng tôi không đi xe ngựa mà đang phải đi bộ.

“Gahaha!” – Owen cười phá lên. “Thần thật vui khi Người đã chọn thần làm cận vệ của Người đấy, thưa Bệ–”

“Shh! Owen… Ta đã nói với ông bao nhiêu lần rồi, đừng có gọi ta là Bệ Hạ giữa phố như thế này chứ?” – tôi suỵt một tiếng.

“Oh, lỗi của thần.”

Cái kiểu cười xòa trông chẳng có tí gì là hối lỗi của Owen khiến tôi phải đau đầu. Owen có vẻ như đang có tâm trạng rất tốt khi được chọn làm cận vệ của tôi, thế nên ông ta có hơi nhạy cảm quá mức so với bình thường.

“Lần này chúng ta đến đây trong bí mật đấy… thế nên, làm ơn đi,” – tôi nói.

“Tất nhiên rồi, thần biết điều đó mà,” – giọng của Owen oang oang lên.

Ông ta có thật sự biết không vậy? So với một nhóm đang làm những việc bí mật, chúng tôi đang nổi bật lên như một đám kì lạ đây này.

Tôi thì đang mặc bộ đồ lữ khách Kitakaze Kozou mà đã trở thành thường phục của tôi mỗi khi cần hoạt động bí mật, Liscia thì đang mặc bộ đồng phục học sinh giống như cái bộ mà cô ấy đã mặc lúc 2 chúng tôi lần đầu tiên cùng nhau dạo quanh thành trấn, long nhân Carla thì đang trong bộtrang phục hầu gái, và cái lão già nam tính này thì đang mặc bộ giáp nhẹ của những mạo hiểm giả. Tất cả chúng tôi đều đang đi cùng nhau. Chuyện quái gì với cái tập thể quần áo chả ăn nhập gì với nhau thế này? Chẳng trách những người qua đường cứ phải quay đầu lại nhìn chúng tôi đến hai lần.

“Thậm chí một nhóm mạo hiểm giả tập hợp trong ngắn hạn trông còn giống một nhóm thống nhất hơn là chúng ta nữa…” – tôi lầm bầm.

“Nếu như anh mặc bộ đồng phục học sinh như lần trước, thì chẳng phải trông sẽ ổn hơn sao?” – Liscia hỏi. “Ngài Owen trông cũng đâu có tệ trong việc đóng vai làm giáo viên với bộ trang phục của Ngài ấy đâu.”

“Tương tự vậy, nếu em ăn mặc như một mạo hiểm giả, chúng ta có lẽ đã trông giống như một nhóm mạo hiểm giả rồi.” – tôi nói.

Trong khi chúng tôi đang tranh luận qua lại với lại, bất giác cả hai chúng tôi cùng quay lại nhìn cô hầu gái long nhân đằng sau chúng tôi.

“G-gì vậy?! Sao hai người lại nhìn tôi?” – Carla liền lớn giọng.

“Mà dù thế nào thì, Carla cũng đều lạc loài nhỉ,” – Liscia gật đầu.

“Anh cũng nghĩ thế, dù thế nào thì cô ấy cũng đang mặc cái bộ váy hầu gái hở hang này,” – tôi nói. “Cho dù chúng ta có ăn mặc thế nào thì trông cô ấy cũng lạc loài thôi.”

“Bộ hai người không cảm thấy là mình ác quá sao, tôi còn không được lựa chọn cách ăn mặc nữa mà?!” – Carla phản đối ầm ĩ, nhưng mà… Nói sao nhỉ, đó là một bộ trang phục hầu gái mà.

Tất nhiên, chúng tôi đã đề nghị rằng cô ấy nên thay một bộ khác đi, nhưng Serina chẳng chịu lắng nghe điều đó. Bộ trang phục hầu gái của Carla không phải là kiểu váy dài cổ điển; đó là một kiểu váy diềm xếp nếp (hay, nói xa hơn một chút, là kiểu váy của hầu gái trong tiệm café). Serina đúng là chơi ác thật khi bắt cô ấy phải mặc bộ này đi vòng quanh thị trấn. Gương mặt của Carla đã hoàn toàn đỏ bừng lên vì ngượng từ nãy đến giờ…

“Nhân tiện thì, Bệ… Ngài Kazuya này, đây có đúng là con đường mà Người muốn đi không vậy?” – Owen hỏi tôi bằng một giọng có vẻ lúng túng.

“Hm? Ừm, đúng rồi mà… Sao thế?” – tôi hỏi.

“À không, chỉ là, nếu thần nhớ không lầm, thì con đường này dẫn đến…”

“Ah! … Đúng rồi.” – Liscia có vẻ như cũng đã nhận ra điều gì đó, nhưng lại không muốn nói ra. “Nếu chúng ta tiếp tục đi theo con đường này…”

… Oh, ra là vậy sao, – tôi chợt nhận ra. “Nếu chúng ta đi tiếp, chúng ta sẽ đến cái khu ổ chuột cũ kỹ đúng không?”

“Đúng rồi,” Owen nói. “Đó không phải là nơi thần muốn mang hai người đến đâu.”

Thậm chí bên trong thủ đô Hoàng gia Parnam cũng có mặt tối của nó. Bởi vì lượng dân cư quá đông, có những người thành công trong công việc, người thì có được lượng thu nhập vừa phải, và người thì thất bại thảm hại. Khu ổ chuột chính là nơi mà những người đã thất bại, nhưng chưa đến mức trở thành nô lệ, trôi dạt đến và phải làm việc kiếm sống qua ngày.

Nhà cửa ở đây rất tồi tàn. Thiếu vệ sịnh, và rất dễ trở thành nơi bùng phát dịch bệnh. Dân cư tập hợp ở đây có nguồn gốc rất đáng ngờ, và tỉ lệ tội phạm ở đây cũng rất cao.

Đại khái, đó là một nơi như vậy đấy.

“Tất cả những chuyện đó giờ đã là quá khứ rồi,” – tôi nói.

“Nơi đó đã thay đổi rồi sao?” – Liscia hỏi tôi.

“Khi tận mắt chứng kiến em sẽ hiểu nhanh chóng thôi. Là thế này, khi anh đang xem xét đến việc cần phải làm gì với những khu ổ chuột thì…” – nói đoạn, tôi làm một cử chỉ như đang cầm một cái vòi phun nước trong tay. “… Anh đã gặp một người nhiệt tình một cách lạ kì, lúc nào cũng đi khắp nơi rêu rao, ‘Thứ dơ bẩn cần phải được khử trùng!’”

Khi chúng tôi xuất hiện tại nơi trước đây là khu ổ chuột…

“Huh?” – Liscia bối rối nghiêng đầu sang một bên.

“Hm?” – Owen cũng làm điều tương tự.

Khi thấy phản ứng của họ như vậy, Carla cũng bắt chước theo. “Có điều gì kì lạ ở đây sao, Liscia?”

Mặc dù cô ấy đã bị hạ xuống thành nô lệ, Liscia vẫn bắt Carla giữ cách nói chuyện với cô ấy như xưa. Dù gì thì họ vẫn là bạn tốt của nhau. Sẽ khá là rắc rối nếu làm điều đó nơi công cộng, nhưng tôi không có ý định nhắc nhở riêng Liscia về cách hành xử đúng mực đâu.

Liscia đáp lại câu hỏi của Carla, ánh mắt của cô ấy vẫn còn đang mơ hồ, “Huh? … À thì. Tớ chưa từng đến mấy cái khu ổ chuột trước đây, nhưng dù vậy tớ lại khá ngạc nhiên trước sự khác nhau giữa nơi này với những gì tớ đã từng nghe.”

“Cậu đã nghe được những gì?” – Carla hỏi tiếp.

“Rằng đây là một nơi tối tăm, ẩm thấp với tình hình trật tự công cộng rất tồi tệ. Thần cũng đã từng nghe như vậy,” – Owen giải thích.

Ông ta nói đúng. Khu ổ chuột trước đây đúng là như thế.

“Đúng là dân cư ở đây có vẻ thưa thớt, nhưng nơi ở đối với tớ trông khá là sạch sẽ mà?” – Carla nói.

Cảnh tượng trước mặt chúng tôi lúc này là những ngôi nhà trông như những tảng đậu hũ trắng xếp thẳng hàng. Nếu nói theo cách để những độc giả hiện đại dễ hiểu, thì hãy tưởng tượng đến mấy cái kiểu nhà tạm được dựng lên ở những vùng bị ảnh hưởng sau trận động đất. Vì chúng khá là đơn sơ, nên chúng đón nhận rất nhiều ánh sáng mặt trời và trông rất sáng sủa. Chúng cũng được thông gió rất tốt, nên không hề bị ẩm thấp.

Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, chúng có thể hơi khô nứt vào mùa đông. Dù vậy thì, khi chúng tôi nhìn thấy bọn trẻ vẽ vời lên nền đất và vui đùa với nhau, thật khó để tưởng tượng rằng trật tự công cộng nơi đây lại tồi tệ.

“Nơi đây có thật là khu ổ chuột không vậy?” – Liscia hỏi.

“Đúng vậy. Nơi đây đã tốt lên hẳn rồi đúng không nào?” – tôi đáp, ưỡn ngực mình ra đầy tự hào. “Khi anh đang trong quá trình giải quyết vấn đề cải thiện điều kiện vệ sinh trong thành phố, anh đã làm việc khá là cật lực để định hình lại mọi thứ ở đây đấy.”

“Cải thiện điều kiện vệ sinh à?” – Liscia hỏi. “Nếu em nhớ không lầm, anh đã từng đề cập đến nó khi anh hạ lệnh cấm các xe hàng không được di chuyển trên bất cứ con đường nào khác ngoài những con đường lớn, và khi anh thiết lập hệ thống nước và cống ngầm đúng không? Vậy là việc tái xây dựng lại khu ổ chuột cũng thuộc một phần trong đó ư?”

“Anh rất mừng khi em vẫn còn nhớ đấy,” – tôi nói. “Đúng vậy. Vi khuẩn gây bệnh rất dễ sinh sôi ở những nơi tối tăm, ẩm thấp, những nơi thiếu sự thông thoáng. Và trên hết, vì nơi đây là một khu ổ chuột, người dân ở đây không có được chế độ dinh dưỡng tốt, thế nên họ sẽ dễ bị bệnh hơn. Nếu một dịch bệnh mà bắt đầu bùng phát, nơi đây chắc chắn sẽ là mảnh đất màu mỡ để nó lây lan một cách nhanh chóng.”

“Vi khuẩn gây bệnh… Em có cảm giác hình như mình đã nghe từ này trước đây,” – Liscia nói.

Cô ấy và 2 người kia nhìn tôi với một khuôn mặt như muốn nói “Đó là gì thế? Có ngon không?”

“Huh? Hồi trước anh đã giải thích rồi mà?” – tôi hỏi.

À, nghĩ lại thì, mình đã từng dùng cái từ đó khi nói về mấy cái bể lắng, nhưng mà mình vẫn chưa giải thích cặn kẽ, – tôi nghĩ. Nếu là thế thì… chắc mình phải bắt đầu bằng việc giải thích vì sao con người lại mắc bệnh vậy.

“Hm… tại thế giới này, có những sinh vật cực kỳ nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy, và chúng tồn tại với một số lượng khổng lồ không thể đếm xuể trong không khí, dưới mặt đất, trong cơ thể chúng ta – bất cứ nơi nào mà em có thể tưởng tượng ra được. Những loài tí hon đó khiến cho đồ vật mục rữa và gây ra bệnh tật. Nhưng mặt khác, chúng cũng khiến thực phẩm lên men, và cũng có một số loài có lợi nữa.”

Sử dụng vốn kiến thức hạn hẹp về khoa học tự nhiên của tôi (tôi là một học sinh chuyên về khoa học nhân văn, còn nhớ chứ), tôi giải thích cho Liscia và những người còn lại về vi khuẩn và vi sinh vật. Tôi có cảm giác là họ không hiểu lắm, nhưng đối với Liscia, người đã biết được rằng kiến thức của tôi hoàn toàn vượt trội so với giới học viện của quốc gia này, cô ấy trông có vẻ hài lòng như muốn nói “Nếu Souma nói rằng thứ đó có tồn tại, thì chắc là vậy rồi.”

Nghiên cứu về y học và vệ sinh học không được phát triển mạnh mẽ tại thế giới này. Một trong những nhân tố chính có lẽ là sự tồn tại của quang thuật (ma thuật hệ ánh sáng). Quang thuật giúp tăng cường khả năng hồi phục của cơ thể, thậm chí hồi phục được cả những vết thương chí mạng. Chúng thậm chí còn có thể nối lại những chi đã bị đứt rời nếu nhanh chóng sử dụng kịp thời.

Có vẻ như, bởi vì thế, mà những nghiên cứu về y học và vệ sinh học đã không được phát triển. Và đó là lý do vì sao, ở thế giới này, có rất ít người biết đến sự tồn tại của vi khuẩn và vi sinh vật.

Quang thuật chỉ kích hoạt khả năng hồi phục tự nhiên của cơ thể, thế nên khuyết điểm của nó là không thể chữa trị những loại bệnh truyền nhiễm hay những vết thương của người già có khả năng hồi phục tự nhiên bị suy giảm. Bởi vì thế, tính cho đến thời điểm hiện tại, việc sử dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc và các phương thuốc dân gian mờ ám đang trở nên tràn lan khi nói đến việc chữa trị cho những căn bệnh truyền nhiễm. Lúc tôi giải quyết vấn đề về vệ sinh, tôi đã nghĩ đến một số việc cần phải làm cho cái tình trạng khẩn cấp này.

Nhưng trước khi làm được những việc như thế, đầu tiên tôi cần một người có khả năng nhận biết được sự tồn tại của vi khuẩn và vi sinh vật mà người thường không thể thấy.

“Nhưng làm thế nào mà con người lại có thể nhận biết được thứ mà họ không thể thấy được chứ?” – Liscia hỏi.

“Ở thế giới này, có những người biết về các loài vi khuẩn và vi sinh vật… hay nói đúng hơn, là một chủng tộc” – tôi đáp. “Khi người của chủng tộc đó tập trung vào ‘con mắt thứ 3’ của họ, họ có thể thấy được các loài vi sinh vật mà bình thường em không thể nhìn thấy được. Anh đã nhận được sự giúp đỡ của họ.”

“Con mắt thứ 3… Ý anh là Tam nhãn tộc ư?” – Liscia hỏi, và tôi gật đầu.

Tam nhãn tộc. Họ là một chủng tộc, giống hệt như những gì bạn có thể mường tượng ra từ cái tên của họ, có 3 mắt.

Họ sinh sống tại những vùng đất ấm áp ở phía Bắc Vương quốc. Đặc điểm của họ là, ngoài 2 con mắt trái và phải giống như bao người khác, họ còn có một con mắt thứ 3 nằm ở giữa trán, cao hơn 2 con mắt thường 1 chút. Có thể tưởng tượng họ giống như Tien Shinhan hay Hosuke Sharaku ấy, nhưng con mắt đó của họ không tròn đến như thế. Chúng khá nhỏ và có màu đỏ. Nhìn thoáng qua, trông nó giống như một món trang sức được đính vào trán vậy.

Liscia thở dài một tiếng. “Em khá là ngạc nhiên khi họ lại đồng ý giúp đỡ đấy. Em từng được nghe nói rằng chủng tộc của họ rất ghét liên hệ với người ngoài.”

“Lý do cho cái tính bài ngoại của họ thực tế có lẽ xuất phát từ cái con mắt thứ 3 đó đấy.”

Tộc Tam nhãn có thể nhìn thấy những thứ mà những tộc khác không thể thấy. Có vẻ như đó là lý do khiến họ dần dần cự tuyệt với người ngoài. Tộc Tam nhãn chỉ cần liếc qua là đã có thể biết được một người có sạch sẽ hay không. Điều đó khiến họ tự nhiên trở thành những người ưa sạch sẽ, và như thế họ bắt đầu tránh việc giao tiếp với các chủng tộc khác nhiều nhất có thể.

Và trên hết, với con mắt thứ 3 đó, tộc Tam nhãn đã biết đến sự tồn tại của vi khuẩn. Họ biết rằng chúng chính là nguyên nhân gây ra những căn bệnh mà không thể chữa trị bằng quang thuật. Tuy vậy, dù tộc Tam nhãn có một mực khẳng định điều này đi nữa, những tộc khác do không thể thấy được vi khuẩn nên không hề tin tưởng vào họ. Trong cái thế giới bị lấp đầy bởi những điều mê tín, cho dù điều họ nói ra là sự thật, việc đó chỉ khiến họ trông có vẻ như đang cố khiến cho thế giới lâm vào hỗn loạn bởi mấy cái lý thuyết mới mẻ đầy mơ hồ của họ.

Bởi vì thế, tộc Tam nhãn đã trở nên ghétgiao tiếp với các tộc khác, và họ đã tự xây dựng nên một hệ thống kiến thức y học độc lập và chỉ áp dụng cho mỗi tộc của họ. Khi nói về những nghiên cứu thực tiễn về bệnh truyền nhiễm, nền y học của họ đi trước cả trăm năm so với cái thế giới này. Tại cái thế giới này, nơi mà con người và thú nhân tin rằng sống tới 60 tuổi đã là thọ lắm rồi, thì tộc Tam nhãn, những người có tuổi thọ dự tính ban đầu cũng tương tự thế, hiện tại có thể sống trung bình đến 80 tuổi.

“Đó chính là cách để anh, một người có khả năng hiểu được những điều họ nói là sự thật, có thể dàn xếp được một cuộc nói chuyện và thỉnh cầu sự giúp đỡ của họ,” – tôi nói. “Cùng với đó, để chứng minh khả năng của họ, anh đã tạo ra một phương pháp giúp cho những tộc khác có thể nhìn thấy vi khuẩn và vi sinh vật. ”

Nói cách khác, là một cái kính hiển vi quang học. Thế giới này vốn đã tồn tại thấu kính rồi (họ có kính rồi mà). Việc còn lại của tôi là vẽ ra một cái sơ đồ hoạt động của kính hiển vi mà tôi mơ hồ nhớ được, rồi những học giả cùng những thợ thủ công đã chế tạo ra được một cái cho tôi. Cái kính hiển vi quang học đó đã chứng minh được những lời tộc Tam nhãn nói là sự thật.

“Cơ mà, quả thực, tộc Tam nhãn thực sự đáng kinh ngạc đấy,” – tôi nói. “Anh thật không thể ngờ là họ đã chế tạo được cả thuốc kháng sinh cơ đấy.”

“Th-uốc-khá-ng-si-nh?”

“Là thứ ngăn ngừa vi khuẩn sinh sôi như anh đã từng kể với em ấy.”

Ví dụ nổi tiếng nhất chính là penicillin, tôi nghĩ thế. Vì theo tôi thấy, thậm chí một tên học sinh chuyên ngành khoa học nhân văn như tôi còn nghe tới nó mà (Dù vậy đó là kiến thức mà tôi gom góp được nhờ đọc manga đấy). Loại thuốc đó được chiết xuất từ một loại nấm màu lam-lục thì phải?

Trong trường hợp của tộc Tam nhãn, họ đã chiết xuất ra loại thuốc đó từ một loài slime đặc biệt có thể sống trong điều kiện thiếu vệ sinh. Chúng là một dạng phân nhánh của loài gelin, và chúng có cùng loại hình dạng giống như loài Slime Dịch kim loại. Chúng không có tên gọi nào, nên tôi liền nhân cơ hội này để đặt cho chúng một cái tên ‘thánh’ là “gelmedics” (đại khái là loài gel dược). Từ những gì mà tôi đã nghe về công dụng của loại thuốc này, không nghi ngờ gì nữa đó chính là một loại kháng sinh, tuy vậy mặc dù chúng khá giống với penicillin, chúng cũng có thể có sự khác biệt lớn.

Nhân tiện thì, tộc Tam nhãn chỉ gọi loại thuốc này là “dược phẩm.”

Tôi có cảm giác gọi như thế sẽ khiến tên của chúng trở nên khó hiểu trong tương lai, thế nên tôi đã sử dụng quyền hạn của mình để đặt cho nó cái tên là “Tam nhãn dược” (three-eyedine). Vì đó là loại dược phẩm do tộc Tam nhãn chế tạo ra, nên tôi rút gọn lại thành Tam nhãn dược. Vì theo ý tôi, gọi là “dược phẩm” hay “viên thuốc” thì cũng được thôi… nhưng mà, vì tôi đã từng là một người Nhật, nên tôi luôn muốn phân biệt rõ ràng giữa các loại thuốc khác nhau.

“Đấy là… Tam nhãn dược phải không?” – Liscia hỏi. “Thứ này giúp ngăn ngừa vi khuẩn sinh sôi, nhưng như thế thì được lợi gì chứ?”

“Đó là một phương thuốc chữa bệnh truyền nhiễm đấy.” – tôi đáp. “Về cơ bản, em có thể cho nó là một loại thần dược giúp chữa lành bệnh dịch và ngăn ngừa vết thương bị hoại tử, anh đoán thế.”

“Chữa được cả bệnh dịch ư?! Thứ thuốc này có thể làm được như thế sao?!”

Không thể trách Liscia khi cô ấy ngạc nhiên đến vậy. Vì kĩ thuật điều trị y tế của đất nước này (đặc biệt là điều trị hồi sức) có khả năng, trong một khoảng giới hạn nào đó, đã đi trước khoa học hiện đại, về tổng thể, chúng đang đồng cấp với Nhật Bản thời Edo. Khi gặp phải những loại bệnh truyền nhiễm, họ sẽ uống trà dược, nhằm cố gắng làm dịu các triệu chứng. Tuy vậy, với kháng sinh, chúng ta hoàn toàn có khả năng điều trị tận gốc các loại bệnh ở một mức độ nào đó.

Liscia trông có vẻ rất sốc. “Thật tệ… Chúng ta đã quá xem thường thứ dược phẩm tuyệt diệu này suốt từ đó đến giờ…”

“Hmm, những tộc khác đã không nhận ra được sự tồn tại của vi khuẩn và vi sinh vật, nên cho dù tộc Tam nhãn có nói với em rằng kháng sinh có thể chống lại được chúng, em có lẽ cũng sẽ không tin họ đâu. Và ngược lại, tộc Tam nhãn chỉ có thể tìm được cách chống lại vi khuẩn nhờ vào việc họ có thể thấy được chúng.”

“Vậy, chúng ta có thể sản xuất đại trà loại tam nhãn dược này không?!” – Liscia hỏi, trông cô ấy có vẻ như rất muốn được nghe thêm.

Vâng, tôi có thể hiểu được cảm giác của cô ấy. Tôi cũng có một phản ứng tương tự thế trong cuộc đối thoại với tộc trưởng tộc Tam nhãn. Tuy vậy, Carla và Owen, 2 người vẫn đang quan sát chúng tôi nãy giờ, lại mở to mắt ra vì ngạc nhiên trước cái cách mà Liscia phản ứng.

Tôi gật đầu với Liscia. “Chúng ta vẫn chưa có đủ năng suất để làm việc đó, nhưng chúng ta sẽ từ từ tăng sản lượng lên. Thực ra anh đã phân phối loại thuốc đó đến quân đội khi cuộc chiến với Amidonia bùng nổ rồi đấy. Em có nhận ra không?”

“May mắn là em chưa cần phải sử dụng đến… Ah! Giờ anh đề cập đến chuyện đó em mới nhớ ra, trong cuộc chiến đó hình như số lượng người tử vong vì bị thương nặng khá là thấp. Vậy ra đó là nhờ tam nhãn dược ư?”

“Có thể là vậy,” – tôi đáp. “Việc vi khuẩn xâm nhập vào vết thương và khiến nó nặng thêm là một trong những vấn đề mà loại dược phẩm đó có thể ngăn chặn được mà.”

“Thật không thể tin được…” – Liscia thì thầm.

“À mà nhân tiện, Tam nhãn tộc đang hợp tác toàn diện với chúng ta, và đất nước chúng ta cũng không có lý do gì phải keo kiệt khi nói đến vấn đề chăm sóc y tế. Thứ cản trở lớn nhất chính là số lượng lũ gelmedics mà họ dùng để chiết xuất ra Tam nhãn dược, nhưng nhờ có Tomoe, chúng ta đã xử lý được vấn đề đó một cách dễ dàng.”

Những loài slime giống như gelin thực tế được xếp vào hàng thực vật, và vì thế em ấy không thể giao tiếp được với chúng như với động vật, tuy vậy từ những suy nghĩ của bọn chúng, em ấy vẫn có thể biết được môi trường sống ưa thích của chúng và những điều kiện cần thiết để chúng sinh sôi. Và giờ đây chúng tôi đã có thể nhân giống loài gelmedics trong những cơ sở chăn nuôi rồi.

“Em gái của chúng ta thật tuyệt vời, đúng không nào?” – tôi thêm vào.

“Chắc chắn là vậy rồi,” – Liscia đáp.

Công chúng đã bắt đầu gọi Tomoe là Trí Lang Công chúa (Wise Wolf Princess). Từ những vấn đề về loài rhinosauruses, đội quân đười ươi ở Van, và giờ là loài gelmedics… không còn nghi ngờ gì nữa em ấy quả thực rất xứng đáng với cái danh hiệu đó.

“À, và còn, trong cái công văn đó, quốc gia của chúng ta đang trong trong thời kì thực hiện cuộc cách mạng y học và vệ sinh học, và một phần trong cuộc cách mạng đó chính là giải quyết những khu ổ chuột giống thế này,” – tôi nói.“Chúng ta đã dỡ bỏ nhưng ngôi nhà cũ kỹ để cải thiện lượng ánh sáng mặt trời và mức độ thoáng khí. Đồng thời, chúng ta cũng đã bài trừ những tên tội phạm và những kẻ buôn lậu dược phẩm, và nhờ thế đã dọn dẹp sạch sẽ khu này theo một chiều hướng rất khác. Toàn bộ dân cư đã được dời đến những chiếc lều mới được dựng sẵn. Những chiếc lều tuy có hơi nhỏ và chật chội, nhưng chúng hoàn toàn miễn phí. Hơn nữa, nhờ phân công cho họ làm những công việc dọn dẹp thành phố, chúng ta đã có thể vừa hỗ trợ tài chính cho họ vừa kiểm soát được tình hình vệ sinh của thành phố.”

“Một mình anh làm hết tất cả những việc đó sao… Anh không có đang tự ép mình làm việc quá sức đấy chứ?” – Liscia hỏi, giọng đầy lo lắng.

Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên đầu cô ấy. “Đúng là có hơi quá sức thật… nhưng đây là một việc đáng để làm. Anh muốn thấy được thành phố này, đất nước này, sẽ tái kiến thiết lại theo hướng mà anh mong muốn. Nếu kết quả mang lại là nụ cười của nhiều người dân hơn nữa, thì việc đó hoàn toàn xứng đáng.”

“Ưm… Thôi được rồi,” – cô ấy nói. “Nhưng mà nếu có việc gì em có thể làm cho anh, hãy nói với em nhé.”

“Tất nhiên. Anh trông cậy cả vào em đấy.”

Liscia và tôi cùng nhau nở một nụ cười rạng rỡ.

Nhưng rồi ngay lúc chúng tôi vừa mới có được một tâm trạng tốt thì…

Pshhhh

… bất chợt, chúng tôi nghe thấy một tiếng ồn như tiếng không khí bị rò rỉ ra bên ngoài một thứ gì đó.

Khi tôi đưa mắt lên nhìn xung quanh tìm kiếm, chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi thấy một người đang mang một cái thùng sau lưng và đang sử dụng một cái đầu ống xi lanh kim loại kéo dài từ cái thùng phun ra một loại sương gì đó lên mặt đất.

Người đó là một phụ nữ trông khá là kì lạ với làn da không sẫm màu như tộc Hắc tiên, mà vẫn còn hơi nâu, và một mái tóc vàng. Cô ta trông khoảng độ giữa hai mươi. Cô ấy trông khá là xinh đẹp, và có một thân hình gợi cảm, nhưng cái mặt nạ tam giác cô ấy đang đeo cùng với cái thùng vác sau lưng đã phá hỏng tất cả. Trán của người phụ nữ đó ánh lên một con mắt thứ 3, đặc trưng của tộc Tam nhãn.

“Hehehe…Hohoho…Ahahahahahaha!Thứ dơ bẩn cần phải được khử trùng” – Sau 3 tràng cười như thế, người phụ nữ liền phun một loại sương xuống đất và vào những căn lều một cách đầy hăng hái.

Cái cảnh tượng quá-sức-chịu-đựng đó khiến Liscia, Carla, và Owen đều đồng loạt nín lặng. Còn về phần tôi, tôi cảm thấy đầu của mình lại bắt đầu đau nữa rồi.

“Cô đang làm cái gì vậy, Hilde?” – tôi hỏi bằng một giọng đầy mệt mỏi.

Tên của cô ta là Hilde Norg. Để bày tỏ lòng cảm kích vì những hỗ trợ của chúng tôi và vì chuộc lại được danh dự cho họ, tộc Tam nhãn đã cho chúng tôi mượn cô ấy để giúp đỡ việc tái cơ cấu lại hệ thống y tế. Cô ấy là vị “bác sĩ” giỏi nhất và cũng là duy nhất của họ.

Tại thế giới này, có rất ít người mang danh hiệu bác sĩ đúng nghĩa với một người Nhật Bản hiện đại có thể nghĩ đến. Những người chịu trách nhiệm cho đa số các ca chữa trị y tế đều là những quang pháp sư, và những người áp dụng thảo dược để giúp làm dịu các triệu chứng bệnh là các nam và nữ y sĩ.

Rất nhiều những quang pháp sư thuộc về giáo hội, và vì thế phần lớn các bệnh xá cũng thuộc những tòa nhà giáo hội. Đó là lý do vì sao người dân ở thế giới này tìm đến giáo hội mỗi khi bị bệnh là điều bình thường, nhưng đối với tộc Tam nhãn, việc này có đôi chút khác biệt.

Bởi vì ngành y học của họ hoàn toàn vượt trội, họ có thể chữa được hầu hết các loại bệnh và thương tích tại nhà. Khi họ gặp phải những căn bệnh quá khó nhằn mà không thể chữa trị tại nhà được, thì khi đó đầu tiên họ sẽ tìm đến những toa thuốc của bác sĩ. Hiển nhiên, người bác sĩ đó phải là chuyên gia hàng đầu trong tộc, và rồi người bác sĩ ấy chỉ cần chuẩn bị thuốc cho những người đó.

Cái người đang phun thuốc khử trùng (nước vôi thì phải) đằng kia, Hilde, là vị bác sĩ giỏi nhất và duy nhất trong chủng tộc của cô ấy, có một lượng kiến thức về y học cực cao, thậm chí cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của tộc Tam nhãn. Tuy vậy, với cái kiểu ăn mặc như lúc này đây, trông cô ta chẳng khác nào một nông dân đang phun mấy cái loại hóa chất nông nghiệp vậy.

Hilde vừa mới nãy còn trưng ra một điệu cười ầm ĩ và đầy nhiệt huyết, nhưng lúc này đây cô ấy đang mang một nụ cười hắc ám và một bầu không khí nặng nề. “Thật là… tôi đã nói với các người bao nhiêu lần rồi, phải dọn mấy cái đống phân mèo này đi chứ?! Chính bởi vì các người cứ để mấy cái đống này nằm giữa đường thế này, vi khuẩn mới tràn ngập chỗ này đấy! Ôi thánh thần ơi! Bẩn quá, bẩn quá!”

Lần này, cô ấy vừa phun thuốc khử trùng, vừa bực tức dẫm chân xuống đất. Trông cô ấy giống như là một người bị rối loạn cảm xúc ấy. Nhưng thật ra đấy là hình ảnh thường thấy ở Hilde.

Cô ấy, với lượng kiến thức về dược lý và một con mắt phát hiện được vi khuẩn được xem là người cực kỳ xuất sắc so với tiêu chuẩn của tộc Tam nhãn, cô ấy cũng có một nỗi ám ảnh với sự sạch sẽ trên cả tiêu chuẩn của tộc cô ấy luôn. Chính vì điểm đó nên việc cô ấy đi khắp nơi với cái bình phun thuốc khử trùng như thế là một điều rất đỗi bình thường.

Nhưng mà thấy cái cảnh tượng đó diễn ra hằng ngày như thế không phải lúc nào cũng tốt.

“Tôi thấy cô chẳng thay đổi chút nào cả, Hilde,” – tôi nói.

“Hm? Cậu là… Cậu là ai thế?”

Tôi tháo cái nón ra khỏi đầu và để lộ gương mặt của mình ra.

Trông có vẻ như chẳng ngạc nhiên gì mấy, cô ấy nói, “Ồ, hóa ra chỉ là một vị vua à,” – rồi quay trở lại với cái công việc phun thuốc khử trùng.

“Gọi tôi ‘chỉ là’ một vị vua có hơi phạm thượng đấy,” – tôi nói. “Nghiêm túc mà nói đó là một vị trí rất quan trọng, cô biết điều đó mà?”

“Thế tại sao cậu không ăn mặc cho giống vậy đi?” – cô ấy hỏi lại. “Tôi còn nghĩ cậu là một tên lông bông nào đó đấy.”

Cô ấy vẫn khắt khe như mọi ngày. Tôi chợt nhớ lại hình ảnh những người bác sĩ khó tính ở thế giới cũ của tôi, và có vẻ như ở đây cũng có người y hệt như vậy. Hilde thuộc kiểu người khá đặc biệt chẳng hề bận tâm đến địa vị của người đang nói chuyện với cô ấy.

Triết lý của Hilde là: “Bệnh tật không chừa một ai cả, dù là tốt hay xấu, giàu hay nghèo, nam hay nữ, bất luận chủng tộc nào. Thế nên trước mặt một người bác sĩ như tôi, tất cả bệnh nhân đều bình đẳng.”

Hình như đó cũng là lý luận của cô ta thì phải.

“Dù sao thì… Hilde này, để tôi giới thiệu cho cô,” – tôi bắt đầu nói. “Hai vị cô nương này là–”

“Tôi biết họ là ai rồi,” – Hilde thở dài đáp, cứ như là đang muốn thể hiện rằng cô ấy đã biết 2 người họ. “Họ rất nổi tiếng, đúng không? Một người là công chúa còn 1 người là con gái của Nguyên Thống chế Không quân, phải chứ?”

“Huh? Còn Ngài Owen thì sao?” – tôi hỏi.

“Tôi chẳng thèm bận tâm tới cái lão già dơ bẩn đó đâu.”

“Cái gì?!” – Owen phản ứng. “Ngươi bảo ai dơ bẩn hả?! Ta lúc nào cũng chải chuốt sạch sẽ đấy!”

“Xê ra đi, cái lão già cơ bắp đần độn kia! Ông mà vệ sinh thân thể sạch sẽ rồi á?!” – cô ấy lớn giọng.

Pshhhh

“Hey hey, cái con nhỏ này, đừng có phun cái thứ sương kỳ quặc đó lên người ta! Ta lúc nào cũng sạch sẽ đấy biết không hả? Hằng ngày, ta đều dội nước lên người, rồi kỳ cọ bằng cái khăn tắm khô đấy nhé!” – Owen quát lên.

Tôi bất chợt tưởng tượng đến cái cảnh một gã đàn ông cơ bắp khỏa thân và đang tắm vào buổi bình minh. Vâng… chỉ mới nghĩ tới đó thôi đã thấy gớm rồi. Hình như cả Liscia và Carla đều cùng tưởng tượng tới cái cảnh đó, trông họ như muốn ọe ra vậy.

T-tôi có cảm giác nếu cứ đào sâu vào cái vấn đề này sẽ chỉ khiến tinh thần của mọi người càng trở nên tồi tệ hơn, nên lúc này đây cần phải chuyển chủ đề ngay mới được.

“M-mà này, Hilde, cô đang làm gì ở đây ngày hôm nay thế?”

Nỗ lực thay đổi chủ đề của tôi nhận được cái khịt mũi từ Hilde.

“Nếu tôi để cho những người ở đây tự tìm ra phương sách, họ sẽ trở nên bẩn thỉu ngay lập tức cho mà xem. Tôi đang phải ghé thăm họ thường xuyên để chỉ dạy cho họ cách vệ sinh và khử trùng khu vực.”

“Có lý…” – tôi nói. “Cơ mà, cộng sự của cô có đi cùng với cô hôm nay không?”

“Đừng có gọi tên đó là cộng sự của tôi.” – Hilde thốt ra những từ đó, trông cô ấy có vẻ khó chịu. “Nếu cậu muốn tìm Brad, thì hắn ta đang ở ‘bên ngoài’. Hắn ta còn bảo rằng ‘Nếu tôi phải đi kiểm tra mấy cái con lợn béo ú đó, tôi thà chăm sóc mấy con chó hoang ít bẩn thỉu kia còn hơn’… hay những lời vớ vẩn kiểu như vậy.”

“… Tôi hiểu rồi, cậu ta cũng chẳng thay đổi chút nào cả.”

“Có lẽ cậu cũng nên nhắc nhở hắn ta đi, Bệ Hạ,” – cô ấy nói. “Cái gã ấy cứ đùn đẩy công việc giảng dạy những bác sĩ tập sự lên tôi suốt.”

“T-tôi hiểu rồi…”

Cái người tên Brad được nhắc đến trong cuộc đối thoại giữa chúng tôi là một bác sĩ khác làm việc cùng với Hilde để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu hệ thống y học của đất nước này. Tên đầy đủ của cậu ta là Brad Joker. Cậu ta là một con người, và kĩ năng của cậu ta trong lĩnh vực y học cũng rất giỏi, nhưng mà… tính cách của cậu ta hơi có vấn đề.

Mình chưa từng thấy Brad thành công trong việc giải thích cho mọi người hiểu bao giờ cả. Mặc dù phô diễn kĩ năng trong lúc thực hành sẽ dễ dàng dẫn dắt những thực tập sinh hơn, nhưng vẫn cần phải có Hilde làm người dạy lý thuyết…

“Này, cậu có nghe tôi nói không đấy, B-ệ-H-ạ?” – giọng của Hilde ngắt dòng suy nghĩ của tôi.

“T-tôi biết rồi,” – tôi đáp. “Tôi sẽ cố gắng nói chuyện với cậu ta, ít nhất là vậy.” – Nếu cô ấy cứ gây áp lực với tôi bằng cái nụ cười hung dữ đó, tôi đành phải gật đầu và đồng ý với cô ấy thôi.

“Thế? Có chuyện gì mà Đức vua cùng những tùy tùng phải xuống tận đây thế?” – Hilde gặng hỏi.

“Oh… tôi đang dự định đến thăm tộc trưởng của tộc Bí Lang,” – tôi đáp. “Đồng thời, tôi cũng dự định sẽ ghé qua trung tâm huấn luyện việc làm mà Ginger đang quản lý nữa.”

“Oh, vậy ra đó là kiểu công việc mà anh muốn giải quyết đấy à.” – Liscia vỗ tay một cái như thể cô ấy cuối cùng đã hiểu ra điều gì đó.

Oh, nghĩ lại thì, tôi vẫn chưa nói với cô ấy công việc của chúng tôi thì phải?

“Tiếp đó, sau khi tôi hoàn tất việc nhờ vị trưởng lão Bí Lang tộc tạo dựng một mối liên hệ cho tôi, tôi dự định sẽ ra ‘bên ngoài’,” – tôi nói thêm vào.

“Ohh, cậu cũng muốn ra ‘bên ngoài’ à, Bệ Hạ?” – Hilde hỏi. “Nếu vậy, chắc tôi cũng sẽ đi theo.”

“Huh? Tại sao?”

“Lý do quá rõ ràng rồi còn gì. Để thông não cho cái tên ngốc suốt ngày bị ám ảnh bởi mấy cuộc khám nghiệm chứ còn gì nữa.”

Hilde nở một nụ cười, nhưng đôi mắt của cô ta không hề cười chút nào cả.

“Ư-ừm… Đừng có đi quá giới hạn đấy nhé?” – tôi hỏi bằng một giọng đầy lo lắng.

“Um, 2 người cứ luôn nói về việc ra ‘bên ngoài’, chính xác thì đó nghĩa là gì thế?” – Carla do dự giơ cánh tay lên và hỏi.

“Nếu chúng ta nói về việc ra ngoài trong khi đang ở bên trong thành phố thế này, thì điều đó chỉ có 1 nghĩa duy nhất là bên ngoài tường thành thôi,” – Hilde đáp bằng một giọng hờ hững.

“Bên ngoài tường thành ư… vậy ý cô là…?” – Liscia trông có vẻ như đã nhận ra điều gì đó và cô ấy đang làm một bộ mặt trầm ngâm.

Đúng vậy… Nó chính xác như những gì mà cô ấy đang tưởng tượng.

Bỏ qua đi, vậy là nhóm của chúng tôi có một lữ khách ngoại quốc, một nữ sinh, một cô hầu gái rồng, và một lão già cơ bắp cùng với một nữ bác sĩ mới gia nhập.

… Vâng. Cái nhóm này càng lúc càng trở nên không ổn rồi.

Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là trung tâm huấn luyện việc làm mà Ginger đang chịu trách nhiệm quản lý.

Khu nhà máy chưng cất của tộc Bí Lang Kikkoro, nơi đã sản xuất ra miso, tương, và rượu sake, cùng những sản phẩm khác, nằm ở cái nơi đã từng là khu ổ chuột này. Trung tâm huấn luyện việc làm của Ginger cũng vậy. Cả hai đều cần một không gian rộng lớn, và đây chính là nơi duy nhất phù hợp.

Khoan hãy nói đến cái trung tâm huấn luyện, chỉ mỗi Khu nhà máy chưng cất Kikkoro thôi cũng đã có một khoảng thời gian dễ dàng trong việc đảm bảo nguồn nhân lực ở đây, thế nên địa điểm này cũng không tệ. Nội điều đó cũng đã xứng đáng để sửa sang lại nơi này rồi.

Trung tâm huấn luyện việc làm được bao quanh bởi những bức tường gạch, và bên trong khu đất đó là một số tòa nhà. Khu này chỉ vừa mới được khai trương thế nên ở đây họ mới chỉ dạy đọc, viết, và làm tính cho những học viên, nhưng ý định của chúng tôi là thử nghiệm tất cả các loại ý tưởng khác nhau trong tương lai, thế nên số lượng các tòa nhà đã được tăng lên.

Khi chúng tôi bước vào qua cổng trước, một đám trẻ chạy ra.

“Tạm biệt, dì San!”

“Tạm biệt!”

Tất cả bọn trẻ đều khoảng độ 10 tuổi, có lẽ thế. Tuy không ăn mặc sang trọng hay tề chỉnh, nhưng trông bọn trẻ có vẻ rất tràn trề năng lượng.

Khi chúng tôi hướng tầm mắt nhìn vào bên trong cánh cổng, Sandria, người phụ nữ nô lệ ngày trước nay đã trở thành thư ký của Ginger, đang vẫy tay với bọn trẻ. “Tạm biệt mấy đứa. Về nhà cẩn thận đấy.”

Nụ cười của cô ấy khi dõi theo bọn trẻ thật hiền từ, hoàn toàn khác với cái thái độ gắt gỏng lần trước khi chúng tôi lần đầu gặp cô ấy.

Vậy ra, cô ta cũng có thể có được nét mặt như vậy à…

Trong khi tôi vẫn đang suy nghĩ, Sandria đã nhận ra tôi và cúi đầu chào thật cung kính. “Bệ Hạ giá lâm, Người thật tốt bụng khi đến thăm chúng thần thế này.”

“Ồ chào cô, Sandria,” – tôi đáp. “Ginger có nhà không?”

“Ngài ấy đang ở trong văn phòng. Để thần dẫn đường cho Người ạ.”

Chúng tôi đi theo Sandria và bước vào một trong những tòa nhà.

Kiến trúc tòa nhà này khá đơn giản, một kiểu thiết kế hình hộp không có diềm, tuy vậy nhìn từ bên ngoài, có thể đoán được rằng tòa nhà này có rất nhiều phòng. Đối với một người Nhật Bản hiện đại, trông nó giống như một bệnh xá hay trường học vậy.

Chúng tôi được dẫn đến trước một căn phòng nằm ở tầng một của tòa nhà với một tấm bảng gắn trên cánh cửa đề rằng “Văn phòng điều hành”. Khi Sandria báo cho người chủ căn phòng biết rằng anh ta có khách ghé thăm rồi mở cửa, Ginger, có vẻ như cậu ta đang làm công việc bàn giấy, liền hối hả đứng dậy.

“B-Bệ Hạ giá lâm, đã lâu rồi thần chưa được diện kiến Người,” – Ginger cất tiếng, vội vã bước đến chỗ chúng tôi. Không giống như Sandria, hành động của cậu ta khá là rụt rè, và có vẻ như cậu ta vẫn còn cảm thấy căng thẳng khi nói chuyện với tôi.

“Không cần phải cứng nhắc vậy đâu,” – tôi nói. “Ta là người đã bắt cậu phải chịu khổ thế này mà.”

“K-không đâu… không hề cực khổ chút nào hết ạ…”

“Vị thư ký của cậu đây khá là tự hào đấy nhỉ?” – tôi nhận xét.

“Bởi vì lòng trung của thần chỉ thuộc về mỗi Ngài Ginger thôi ạ.” – Sandria hờ hững đáp và bước đến bên cạnh Ginger.

Đó chắc hẳn là một lời phạm thượng, nhưng có thứ gì đó ẩn trong thái độ của cô ta khiến tôi không hề nghĩ như vậy. Cô ấy giống như vị hầu gái của Liscia, Serina, hay gương mặt đại diện cho công ty của Roroa, Sebastian. Những con người đã tìm được vị chủ nhân mà mình muốn phụng sự trong suốt cuộc đời quả thực có một thứ cảm xúc rất đặc biệt. Nó giống như là họ hoàn toàn có thể đương đầu lại với cả Đức vua nhân danh người chủ của họ.

“Nào Ginger, để ta giới thiệu cho cậu,” – tôi nói. “Đây là vị hôn thê của ta, Liscia.”

“Chào cậu. Tôi là Liscia Elfrieden.” – Liscia mỉm cười cúi chào, khiến Ginger liền đứng thẳng người lên.

“C-công chúa?! C-cảm ơn Người đã đến thăm cái trung tâm nhỏ bé này của thần! T-thần… Ah, không, tên của hạ thần là Ginger Camus ạ. Nhờ vào sự trợ giúp to lớn từ Bệ Hạ, thần mới có thể trở thành người điều hành của cái trung tâm này…”

“Hee hee! Không cần phải cứng nhắc như vậy đâu. Rất hân hạnh được gặp cậu, Ginger.”

“V-vâng, thưa phu nhân!” – Ginger bắt tay Liscia một cách khó nhọc.

“Ta có có cảm giác rằng cậu còn căng thẳng hơn so với lần đầu ta gặp cậu nữa đấy…” tôi nói nhỏ.

“Chắc chắn là vậy rồi,” Carla lên tiếng. “Trước khi lời hứa hôn giữa Người với cô ấy được công bố, Liscia chính là loại người mà hiện tại chúng ta hay gọi là lorelei trong lòng dân chúng Vương quốc đấy. Đóa hoa không thể chạm vào đó, vị công chúa có địa vị cao hơn rất nhiều so với cậu ta, có khi còn cao hơn cả chín tầng mây ấy chứ, lại đang đứng trước mặt cậu ta thế này. Chẳng trách cậu ta lại căng thẳng đến vậy.”

Lời giải thích của Carla đối với tôi khá hợp lý. Những thành viên của Hoàng tộc, đặc biệt là công chúa và hoàng hậu… họ chẳng khác nào thần tượng của đất nước cả. Tôi đã từng chứng kiến một cơn sốt khắp toàn nước Anh khi tin tức về một vị công chúa mới chào đời được đưa lên mặt báo. Thậm chí ngay cả ở Nhật Bản, những tin tức về Hoàng tộc và những người có mối liên hệ với gia tộc Hoàng đế đều thu hút rất nhiều sự chú ý.

Sau đó, tôi cũng giới thiệu Carla và Owen. Và rồi, khi tôi định giới thiệu Hilde thì…

“Hilde và thần có quen biết nhau ạ,” – Ginger nói. “Cô ấy thường hay khám y tế miễn phí cho những đứa trẻ đến đây chơi. Điều đó quả thực giúp ích được cho thần rất nhiều.”

Ginger cúi đầu cảm tạ Hilde, khiến cho nét mặt của cô ta bỗng trở nên kì lạ.

“Hmph. Chỉ là do lũ nhóc đó bẩn thỉu quá thôi. Ai mà biết được bọn chúng đang mang thứ bệnh dịch gì trên người chứ.”

“Miệng của cô thì nói thế, nhưng mà cô vẫn cứ đến thăm chúng tôi một hai lần trong tuần đấy thôi,” – Sandria nói. “Nếu bọn trẻ bị thương, cô liền chữa trị cho chúng. Tôi nghĩ là, trái ngược hoàn toàn với những gì cô nói, cô thật sự rất thích bọn trẻ, đúng không nào?”

“Sandria… cô mà nhiều chuyện quá là tôi sẽ khâu miệng cô lại luôn đấy, hiểu chưa?” – Hilde ngắt lời Sandria.

“Oh, thứ lỗi cho tôi nhé,” – Sandria hờ hững nói ra lời xin lỗi trong khi Hilde đang nhìn chằm chặp vào cô ta.

Vâng… Nhìn Hilde lúc này đây khiến tôi nhớ đến những bà dì ở tiệm bánh hàng xóm nơi tôi đã từng sống rất lâu về trước. Mỗi khi bọn trẻ chạy đến chỗ bà ấy, bà ta sẽ nói rằng, “Cái đám khách khứa ồn ào này, xem chúng bây kìa,” và làm một điệu bộ chua ngoa, nhưng rồi bà ta sẽ nói thêm vào, “Lũ nhóc chúng bây đói lắm sao,” và thường hay cho chúng những cái bánh ngọt còn dư. Giờ nghĩ lại thì, đó chắc hẳn là cách để cô ta che dấu cái tính e thẹn của mình.

Hilde khịt mũi. “Tôi sẽ đợi ở bên ngoài cho đến khi các người nói chuyện xong.”

“Bọn trẻ đều về nhà hết rồi, hình như cô cũng vừa mới biết mà.”

“Im đi, Sandria! Ai bảo là tôi muốn chơi với bọn trẻ chứ?” – Hilde phản ứng lại.

“Tôi đâu có nói vậy đâu…” – Sandria đáp.

“Hmph!”

Rồi Hilde rời khỏi phòng, bực tức đóng sầm cánh cửa đằng sau cô ấy lại, tất cả chúng tôi đều nhìn cô ấy rời đi với một nụ cười khổ trên môi.

… Giờ thì. Đến lúc quay lại chủ đề rồi.

Liscia, Ginger, Sandria và tôi ngồi xuống một cái bàn tiếp khách. Liscia và tôi ngồi một bên, còn Ginger và Sandria thì ngồi hướng đối diện với chúng tôi. Carla và Owen thì đứng đằng sau chúng tôi.

Rồi Liscia giơ tay lên. “Um, tôi có khá nhiều thứ muốn hỏi… Chính xác thì hai người làm công việc gì ở đây thế?”

“Hiện tại thì, chúng thần dạy cho những học viên cách đọc, viết và làm tính,” – Ginger đáp với một nụ cười hiền hậu.

“Vậy nơi đây giống như là một ngôi trường à?”

“Vâng đúng vậy. Nơi đây là một ngôi trường mà ai cũng có thể đến học, bất kể giai cấp.”

Tại đất nước này, thực ra đã có những cơ sở giáo dụckhá bài bản. Bộ đồng phục mà Liscia đang mặc thuộc về Học viện Sĩ quan Hoàng gia, và cũng có những Học viện Hoàng gia, nơi sản sinh ra những nhà nghiên cứu trong mọi lĩnh vực, cũng như Trường học Phép thuật, nơi chuyên dạy về ma thuật. Tuy vậy, những cơ sở giáo dục đó hầu hết toàn dành cho những đứa trẻ của giới hiệp sĩ và quý tộc. Không hề có một trường học cơ bản nào dùng để phục vụ cho dân thường. Trung tâm huấn luyện việc làm này chính là một trường hợp thử nghiệm cho loại hình trường học cơ bản đó.

“Với lại, không chỉ cho trẻ em thôi đâu,” – Ginger nói tiếp. “Những người trưởng thành cũng có thể học ở đây.”

“Người trưởng thành cũng học được ư?” – Liscia hỏi.

“Có rất nhiều người trưởng thành bảo rằng họ không thể đọc, viết hay làm tính. Gia cảnh càng nghèo khó, thì càng có nhiều trường hợp như thế. Chúng thần cũng tạo điều kiện cho những người đó học ở đây. Vào ban ngày, trẻ em sẽ học, còn vào ban đêm, những người trưởng thành sau khi đã hoàn thành công việc của mình lúc ban ngày sẽ đến đây học.”

“Hm, vậy là cậu đã tách và phân chia họ vào những mốc thời gian riêng biệt khá hợp lý đấy…”

“Ý tưởng lập ra một khoảng thời gian vào buổi tối cho những người trưởng thành học chính là của Bệ Hạ đấy ạ,” – Ginger nói.

Đó không hẳn là ý tưởng của tôi. Tôi chỉ tái xây dựng lại những lớp học buổi tối mà con người chúng ta đã làm ở thế giới khác mà thôi.

Ginger chắp tay lại trước miệng của cậu ta và nói. “Đây là tất cả những gì chúng thần có thể làm lúc này. Tuy nhiên… từ lúc này trở đi, chúng thần sẽ được phép làm thêm nhiều thứ khác nữa. Có phải không, thưa Bệ Hạ?”

Ginger chuyển hướng cuộc trò chuyện sang tôi, và tôi gật đầu một cách chắc chắn. “Đúng vậy. Từ giờ trở đi, ta dự định sẽ để cậu dạy thêm những chủ đề chuyên biệt. Ví dụ như, huấn luyện những mạo hiểm giả cách thám hiểm hầm ngục và bảo vệ người dân, truyền lại những kĩ thuật dân dụng, làm việc với Hilde và người của cô ấy để đào tạo ra những bác sĩ mới, học cách cải thiện nền nông nghiệp, lâm nghiệp, và thủy sản của đất nước chúng ta… À, còn nữa, ta cũng muốn một lớp đào tạo đầu bếp nữa nhé.”

“Đấy quả là một chủ đề có phạm vi rất rộng nhỉ…” – Liscia nói.

Tôi nghĩ chắc các bạn lúc này đã nhận ra được từ những điều mà tôi vừa nói rồi nhỉ, cái trung tâm huấn luyện việc làm mà tôi muốn tạo dựng là một trường hướng nghiệp, hay cũng có thể giống như một trường đại học với những ngành nghề chuyên môn.

Trọng tâm chính của những học viện giáo dục tại thế giới này là ma thuật hay quái vật. Ma thuật có thể được áp dụng linh hoạt trong bất cứ lĩnh vực nào, và chúng cũng có mối liên hệchặt chẽ đến khoa học và y tế nữa. Về vấn đề nghiên cứu quái vật,kể từ lúc Lãnh địa Quỷ xuất hiện, nó đã trở thành một trong những chủ đề nghiên cứu quan trọng nhất.

Trước thời điểm đó, những loài quái vật chỉ xuất hiện trong các hầm ngục chính là chủ đề cho những hoạt động nghiên cứu. Tuy nhiên,kể từ sau khi lãnh địa quỷ xuất hiện, số lượng và chủng loại quái vật được tìm thấy đã tăng lên gấp mười lần. Những nghiên cứu cho chủ đề này đã được đẩy nhanh nhằm mục đích tìm ra những giải pháp cho nhiều vấn đề khác nhau. Và còn, việc nghiên cứu những nguyên vật liệu thu hoạch được từ quái vật cũng không thể thiếu cho sự phát triển của công nghệ.

Những loại hình nghiên cứu về ma thuật và sinh vật quỷ chủ yếu được thực hiện ở Học viện Hoàng gia. Chắc chắn một điều rằng những thành quả nghiên cứu những thứ tiên tiến này sẽ dẫn đến những bước phát triển mới trong nhiều lĩnh vực học tập khác.

Mặc dù vậy, đây có lẽ là góc nhìn của tôi với tư cách là một người Nhật Bản, tôi cho rằng đó là điều khá là dị thường, những khám phá mang tính cách mạng lại đang được chờ đợi để tìm ra trong những công trình nghiên cứu mà khi nhìn sơ qua, có vẻ như chúng cũng thật vô nghĩa. Giống vớicái cách những kĩ thuật được mài giũa và cải thiện trong những khu nhà máy ở trung tâm mà chẳng mấy ai quan tâm lại có thể tạo ra những bộ phận không thể thiếu để chế tạo một con tàu không gian.

Bất kể là thứ gì đi nữa, nếu bạn làm chủ được nó, thì bạn sẽ là giỏi nhất. Nếu bạn có thể trở thành số một, bạn cũng có thể là người duy nhất.

Đó là lý do vì sao tôi muốn tạo ra một nơi mà những thứ đã bị bỏ mặc bởi thế giới này – giáo dục, kỹ thuật dân dụng, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, nấu ăn, và hội họa – có thể được nghiên cứu một cách chuyên biệt và chỉ dạy lại cho những người khác. Và rồi, nếu như chúng ta có được thành quả trong một lĩnh vực từ những gì chúng ta đã thử nghiệm ở trung tâm huấn luyện này, chúng ta sẽ xây dựng lên một trung tâm huấn luyện (lúc này thì giống như một trường hướng nghiệp hơn rồi) chuyên về lĩnh vực đó ở một thành phố khác.

Để làm điều đó, điều cần làm trước nhất là phải gia tăng mức độ giáo dục bình quân trong Vương quốc, và đó là lý do vì sao chúng tôi đang khởi đầu bằng việc dạy học ở mức cơ bản là đọc, viết, và làm tính.

Tôi hỏi Ginger, “Vậy, ý của cậu thế nào? Công việc ở trung tâm huấn luyện ra sao rồi?”

“À vâng… chúng ta đang làm rất tốt trong việc tập hợp những đứa trẻ dưới 12 tuổi,” – Ginger đáp. “Hệ thống bữa ăn trường học mà Người đề xướng đã hoạt động rất tốt, thần có thể khẳng định điều đó. Có những thời điểm khá là bận rộn, nhưng chúng thần đã tạo ra được một vòng lặp thế này: họ đến đây, học tập, có một bữa ăn đàng hoàng, và rồi về nhà.”

“Hệ thống bữa ăn trường học ư?” – Liscia cất tiếng hỏi.

“Nếu những đứa trẻ dưới 12 tuổi đến đây học tập, chúng sẽ được cung cấp bữa ăn miễn phí. Nếu chúng học ở đây, chúng được ăn. Một khi điềunày đượclan truyền rộng khắp, những đứa trẻ của các gia đình gặp khó khăn tài chính sẽ đến đây học tập ngày càng nhiều. Rất nhiều người giám hộ thấy rằng sẽ tốt hơn khi gửi chúng đến đây học tập và tiết kiệm được một số tiền bỏ ra cho chúng ăn hơn là bắt bọn trẻ phải làm việc để kiếm về một lượng tiền ít ỏi. Vì dù sao thì nếu bọn trẻ học tập nghiêm túc, trong tương lai chúng có thể thoát được kiếp nghèo.”

“Hmmm,” – Liscia nói. “Đó quả là một hệ thống hay đó. Đấy cũng là thứ đã được áp dụng ở thế giới của anh à, Souma?”

“Đúng vậy,” – tôi đáp. “Đó là một phương pháp thường được áp dụng để hỗ trợ những nước nghèo.”

Liscia trông có vẻ khá ấn tượng, nhưng vẻ mặt của Ginger lại trở nên u ám hơn.

“Đúng là, chúng ta đã làm rất tốt trong việc thu hút những đứa trẻ. Tuy vậy, ở chiều hướng ngược lại, rất khó để tập hợp những người trưởng thành, những người không nằm trong độ tuổi của hệ thống bữa ăn trường học. Chúng thần đã làm tất cả những gì có thể như dạy học cho họ vào buổi tối khi công việc đã xong, nhưng… ‘Tôi đã sống cảđời mà chẳng hề biết đọc, viết, hay làm tính. Tại sao bây giờ tôi phải học chứ?’ họ nói thế, và không cho chúng thần một cơ hội nào.”

“Ừm, nếu họ chưa bao giờ được tiếp cận nền giáo dục, ta có thể hiểu vì sao họ lại nghĩ như thế,” – tôi nói.

Chỉ khi tiếp cận với nền giáo dục con người mới có thể hiểu được giá trị của nó. Trong khi những đứa trẻ có thể hỏi rằng, ‘Tại sao chúng ta cần phải học?’ khi lớn lên chúng sẽ nghĩ rằng, ‘Tại sao mình không học nhiều hơn?’ rằng chúng sẽ phải hối hận vì chỉ khi còn là trẻ em chúng mới được học.

“Hmm, khai sáng cho họ biết được giá trị của việc giáo dục là một phần công việc của chúng ta,” – tôi nói. “Ta sẽ nghĩ ra vài cách.”

“Nhờ cả vào Người, thưa Bệ Hạ.”

Ginger và tôi liền bất giác bắt tay nhau.

Và cuối cùng, sau khi trao đổi với nhau một số thứ, Ginger và Sandria tiễn chúng tôi rời khỏi trung tâm huấn luyện.

Part 2:

Trans + Edit : Mr.Baby

Support trans:Maxmalefic9x

Nơi tiếp theo mà chúng tôi ghé thăm là Xưởng chưng cất Kikkoro, cách không xa khu trung tâm huẩn luyện việc làm.

Khu xưởng này, sử dụng nhãn hiệu hình lục giác và biểu tượngcon sói ở trung tâm, được quản lý bởi những người tộc Bí lang như Tomoe, và đây chính là nơi sản xuất ra nước tương, súp miso, rượu sake và mirin.

Tại đây, tôi gặp thêm 1 người quen.

Khi chúng tôi bước vào, có một người đàn ông mập ú mặc bộ quần áo ngắn bất chấp trời đông lạnh.

“Hm? Poncho à?” tôi hỏi

“B-Bệ hạ? À vâng, chúc Người một ngày tốt lành ạ”

Khi nhận ra chúng tôi, Poncho liền cúi đầu chào. Có lẽ anh ta cuối cùng cũng đã quen với ý tưởng chỉ nên cúi đầu một lần rồi. Trước đó, anh ta cứ liên tục dập đầu lên xuống mỗi khi thấy tôi.

“Poncho, anh làm gì ở đây vậy?”

“À, phải rồi. Xin Bệ Hạ hãy lắng nghe!” Poncho sáp lại gần với cơ thể khủng bố đó.

“Whoa, gần quá!” – Tôi kêu lên. “…Có chuyện gì mà đột ngột thế?”

“Cuối cùng, nó đã xong rồi! Món “sốt” mà Người yêu cầu!” – một Poncho lúc nào cũng ngại ngùng và nhút nhát, bất chợt tỏ ra rất phấn khích, và đưa tôi một chai chứa đầy chất lỏng màu đen.

Món “sốt” mà tôi yêu cầu ư?

….Ah!

“Không lẽ là thứ đó, cuối cùng cũng thành công rồi sao?”

“Vâng! Xin Người hãy tự nếm thử.”

“Được rồi!” – tôi nhỏ vài giọt chất lỏng màu đen đó lên mu bàn tay, rồi liếm chúng.

Nó có vị của rau củ quả và hương thơm của gia vị. Không ghi ngờ gì nữa, đây chính là nước sốt của Nhật. Tuy nhiên, khác với loại nước sốt Worcestershire thông thường,nước sốt này có vị ngọt và chua rất mạnh, cũng như hương vị rất đậm đà.

Đây đúng là thứ sốt đi cùng với yakisoba, nước sốt dùng với các món ăn làm từ tinh bột.

“Vị của nước sốt…là hương vị của đàn ông,” – tôi đưa ra lời nhận xét, trích dẫn từ câu nói của một manga về ẩm thực.

“Anh lại đang nói nhảm gì vậy?”- Liscia đảo tròn đôi mắt và cất giọng hỏi tôi, khiến tôi chợt bừng tỉnh.

“À, chỉ là món sốt mà bọn anh đang thí nghiệm cuối cùng cũng thành công, nên anh hơi bị xúc động tí.”

“N-nó quan trọng đến thế sao?” – Liscia hỏi.

“Đương nhiên! Với nó, anh có thể làm Yakisoba, okonomiyaki, monjayaki, takoyaki, và sobameshi. Nó thậm chí còn hợp với những món rán nữa.”

“Em chả biết những món mà anh vừa nói đâu….” – Liscia lẩm bẩm.

“Anh sẽ làm nó cho em, sớm thôi. Mà kể cả có làm thừa, anh chắc chắn là Aisha cũng sẽ chén hết cho mà xem.”

Dù sao thì, cuối cùng thứ nước sốt dành cho những món làm từ tinh bột này cũng đã được hoàn thành.

Đó là cả một hành trình dài. Ở thế giới này, đã có một nước sốt giống như sốt Worcestershire, nhưng nước sốt đó không đủ đậm đà nên nó không hợp với yakisoba. Tôi nghĩ rằng có thể tự mình tạo ra nó, và cố gắng làm với phương pháp “thử và lỗi”. Tuy nhiên, với zero kiến thức về sốt, Tôi đã không thành công. Đó là lý do tại sao tôi lại chế ra món sốt cho mì ý trước khi tạo ra món sốt cho yakisoba. Tôi đã bỏ cuộc nửa chừng, nhưng có vẻ Poncho đã tiếp tục công việc dang dở của tôi.

“Ta thật sự rất ấn tượng khianh đã tái tạo thành công thứ sốt này đấy,” Tôi bảo Poncho “Mà anh chưa bao giờ nếm thử nó trước đây, đúng không?”

“Thần có nghe những lời mô tả của Bệ Hạ ‘nó đậm đà hơn nước sốt Worcertershire, ngọt, và ta nghĩ nó còn hơi chua nữa,’ cùng với kiến thức về món yakisoba, món mà đổ nước sốt lên trên phần mì và trộn, cũng như món mì mà Ngài đặt tên là ‘mì ý’, đã cho thần thông tin cần thiết.”

“Món mì ý ư?” tôi hỏi

“Phải, món đó đã cho thần thông tin cần thiết. Món mì ý đó dùng sốt cà chua mà thần đã làm cùng với Bệ Hạ, nên thần đã nghĩ ra một thứ gì đó tương tự như sốt cà chua đã được dùng với món ‘yakisoba’ này, chính là vậy.”

“Ahhhhh!” – Tôi chợt nhận ra.

Đúng rồi! Vị ngọt và mùi thơm này đến từ rau củ quả! Nói cách khác, thứ sốt dùng cho những món làm từ tinh bột này được chế ra bằng cách cho thêm sốt cà chua cũng như những nguyên liệu khác vào sốt Worcestershira ư? Poncho đúng là có vị giác rất tuyệt vời khi có thể tự mình nhận ra điều đó.

“Thế nên, để làm cho hỗn hợp sốt worcestershira và sốt cà chua đậm đà hơn, thần đã thử cho thêm nước tương và mirin được sản xuất ở xưởng chưng cất Kikkoro. Uhm….Người thấy thế nào ạ?” – anh ta ngần ngại hỏi tôi.

Tôi đặt 2 tay lên vai Poncho. “Poncho, anh làm rất tốt!”

“Người quá khen rồi.”

“Liệu nước sốt này có thể được sản xuất đại trà không?” – Tôi hỏi

“Có vẻ như Xưởng chưng cất Kikkoro sẽ làm việc đó cho chúng ta ạ.”

Tuyệt vời! Giờ tôi có thể viết thêm một trang sử mới cho nền ẩm thực của Vương quốc rồi. Trong lúc tôi và Poncho bắt đầu hăng hái nói về nước sốt, phần còn lại của nhóm….đặc biệt là nhóm nữ, Liscia, Hilde, và Carla…. đứng ngây người ra nhìn, đôi mắt của họ đảo tròn liên tục.

“Souma không phải là người kén chọn, nhưng đôi khi, anh ấy lại kén chọn những chi tiết kì lạ nhất. “ – Liscia nói “Tại sao lại thế nhỉ?”

“Đàn ông là thế đấy, Công chúa à.” – Hilde nói. “Họ luôn đổ niềm đam mê không cần thiết của mình vào những thứ phụ nữ không hiểu, và chẳng buồn quan tâm đến những rắc rối họ cần phải vượt qua để làm điều đó. Đúng là những sinh vật kỳ lạ.”

“Cô nói cứ như mình đã có kinh nghiệm rồi vậy ý,” Carla hỏi. “Cô quen biết một người nào đó giống như vậy ư, Cô Hilde?”

“Đừng hỏi những thứ không nên hỏi, Nữ long tộc, “ – Hilde đáp trả “Tôi sẽ khâu miệng của cô lại bây giờ đấy.”

“V-vâng, thưa Quý bà! Em sẽ không hỏi điều gì nữa!” Carla hối hả cúi đầu, trông cứ như là cô ta đã bị ảnh hưởng bởikiểu nói chuyện của Poncho rồi vậy.

À mà, tôi đã bất ngờ trở nên phấn khích bởi cái thành công không ngờ tới này, nhưng đã đến lúc phải hoàn thành cái mục tiêu thật sự rồi. Tôi tạm biệt Poncho, và sau đó, trong phòng của giám đốc Xưởng chưng cất Kikkoro, tôi gặp vị trưởng lãocủa tộc Bí Langđang lãnh đạo nơi này.

Chúng tôi ngồi đối diện với ông ta như chúng tôi đã làm khi ghé thăm Ginger. Mái tóc bạc, lông mày trắng, và bộ râu dài rậm bạc trắng của vị trưởng lão khiến tôi nhớ đến loài chó Maltese. Tuy nhiên, bên dưới mái tóc đó, là một ông già.

Ông ta cúi đầu chào thật cung kính trong khi vẫn đang ngồi “ Chúng thần, những Bí lang, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của chúng thần với Bệ hạ, từ sự bảo hộ, khu Xưởng chưng cất Kikkoro này, và tất cả những hỗ trợ khác của Người nữa. Thay mặt các thành viên trong tộc, thần xin tạ ơn Người.”

“Không có gì đâu” – Tôi trả lời. “Tomoe cũng đã giúp đỡ rất nhiều cho chúng ta. Bên cạnh đó, thật may mắn khi tộc Bí lang các ngươi biết cách trồng gạo và tạo ra nước tương, miso, sake, và nhiều thứ khác. Nhờ đó mà ta được ăn những món ăn ngon, cũng như dùng chúng để cung cấp lương thực cho dân chúng.”

“Người quá khen rồi,” vị trưởng lão nói vậy. “Giờ thì, thưa Bệ Hạ,thần mạn phép hỏi có chuyện gì đến mức Người phải đích thân đến đây hôm nay ạ?”

“Phải……ta nghĩ rằngđã đến lúc chúng ta phải giải quyết cái vấn đềở bên ngoài rồi. “

“Nói đến ‘bên ngoài’….ý Người là trại tị nạn?”

Tôi lẳng lặng gật đầu.

Khi tôi được triệu hồi đến nơi đây, đất nước này đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Khủng hoảng lương thực, những quý tộc tha hóa thì chống đối chính quyền, những nước láng giềng thì đang lăm le xâm chiếm, vấn đề với Quỷ vương, quan hệ với Đế Quốc,…… và còn rất nhiều vấn đề khác.

Tuy vậy, giờ đây, tôi cảm thấy phần lớn các vấn đề đã được giải quyết. Chúng tôi đã vượt qua cuộc khủng hoảng lương thực, và tình hình nội chính đã khá ổn định. Những kẻ thù ngoại bang đã bị quét sạch, và về vấn đề với Quỷ vương, chúng tôi đã thành lập một liên minh bí mật với Đế quốc để cùng chung tay giải quyết vấn đề đó. Tôi đã làm việc ngày đêm để giải quyết từng vấn đề một, và vấn đề cuối cùng chính là trại tị nạn này.

Bên ngoài bức tường thành bao quanh Parnam, có một ngôi làng chứa đầy những người dân tị nạn đến từ phương Bắc do sự xuất hiện của Lãnh địa Quỷ Vương.

Tôi gọi đó là làng, nhưng thực ra chỉ là tạp nham những ngôi lều tạm bợ và những mái nhà lụp xụp tập trung lại một chỗ. Trong số những chủng tộc bị biến thành dân tị nạn, chỉ có tộc Bí lang được nhận sự trợ giúp chính thức của tôi với danh nghĩa tận dụng tài năng của họ. Nhưng đó chỉ là một phần nhỏ trong số tất cả những dân tị nạn. Ngay cả bây giờ, phần lớn dân tị nạn vẫn sống ở đó.

Theo lý thuyết, khi có vấn đề khủng hoảng, lương thực căn bản sẽ được cung cấp cho họ trong suốt khoảng thời gian đó, nhưng họ sẽ không thể cầm cự được lâu. Còn có những vấn đềvệ sinh nữa, và nếu cứ mãi cung cấp cho họ lương thực thế này sẽ gây nên dị nghị trong lòng người dân.

Nếu có thể, tôi muốn tất cả họ sẽ chọn làm thần dân của đất nước này, giống như tộc Bí lang đã làm, nhưng….có vẻ điều đó khá khó khăn. Ước muốn của họ là được trở lại quê nhà. Nếu họ chấp nhận trở thành thần dân của đất nước này, điều đó đồng nghĩa với việc họ phải từ bỏ ý định trở về quê nhà của mình.

Đối với những người mong rằng mối đe dọa của Lãnh địa Quỷ một ngày nào đó sẽ được quét sạch, để họ có thể trở về quê hương, điều đó với họ là không thể chấp nhận được. Tôi đã gửi các cận thần của mình đến trại tị nạn để đàm phán, nhưng họ đều bị từ chối.

“Chúng tôi muốn trở về quê nhà của mình” hay “hãy để chúng tội sinh sống ở đây đến khi thời điểm đó đến” là những điều họ nói.

Tôi hiểu cảm giác của họ khi nói ra những điều đó, nên tôi không quá cứng rắn với họ. Tuy nhiên, lúc này đây thời gian không còn nhiều nữa.

“Thời tiết mùa đông sẽ càng khắc nghiệt hơn” tôi nói, “ nếu họ vẫn sống trong những ngôi nhà tạm bợ đó, những người yếu nhất trong số họ, bao gồm trẻ con và người già, sẽ là những người đầu tiên bị chết cóng. Trước khi điều đó xảy ra, ta muốn đích thân đến đó và ép họ phải quyết định.”

“Bệ Hạ…..” – vị trưởng lão cất tiếng.

“Để làm được điều đó, ta muốn ngươi gửi một người đưa tin đến ngôi làng đó trước. Hãy bảo rằng ta sắp tới. Như thế thì sẽ ít hỗn loạn hơn.”

“Thần hiểu rồi.” – vị trưởng lão liền đứng dậy khỏi ghế, rồi quỳ xuống sàn nhà, và cúi đầu xuống thật thấp. “Tộc Bí Lang chúng thần đã được một tay của Bệ Hạ cứu giúp. Nếu có thể…..chúng thần mong rằng Ngườicũng sẽ cứu giúp những đồng hương của chúng thần.”

“Được…Ta sẽ làm mọi thứ ta có thể” – Tôi nói với vị trưởng lão đang quỳ trên mặt đất và dập đầu xuống đất cầu xin tôi.

“Sao anh không nói rõ ràng hơn, chẳng hạn như ‘Cứ để mọi chuyện cho ta?’” Liscia bảo với tôi, nhưng đây nhiệm vụ này tôi không thể xem nhẹ được.

“Anh sẽ cố thuyết phục bọn họ, nhưng….người ra quyết định cuối cùng không phải là anh” Tôi giải thích, “Họ mới là những người cần phải quyết định tương lai của chính họ. Khi anh đã nhận được cái quyết định đó,anh sẽ ra quyết định xử trí họ. Cho dù điều đó có nghĩa là họ sẽ phải nhìn thấy một sự thật tàn khốc.”

“Souma….” Vẻ mặt của Liscia đầy lo lắng, nhưng không còn đường lui nữa rồi.

Hi vọng rằng…. họ sẽ nhìn vào thực tế chứ không phải những lí tưởng viễn vông khi đưa ra quyết định.

——————————————————–

Bên ngoài bức tường thành bao quanh Parnam, trại tị nạn nằm ở một khu đồng bằng cách đó 100 mét. Những căn lều và mái nhà tồi tàn bừa bộn khắp xung quanh, và những cánh đồng rau xanh nằm rải rác ở một số nơi. Đây chính là nơi ở và sinh sống của khoảng 800 người tị nạn.

Có rất nhiều chủng tộc khác nhau sống ở đây. Nhân tộc, tiên tộc, thú nhân, và cả người lùn nữa. Điều đó chứng tỏ rằng đã có rất nhiều quốc gia bị san bằng bởi Lãnh địa Quỷ Vương dẫn đến việc rất nhiều người dân đã bị buộc phải chạy nạn.

Họ đã cắm trại ở đây, và sống một cuộc sống gần như là nguyên thủy, họ cùng nhau chia sẻ những tài nguyên và trợ cấp Vương quốc cung cấp cho họ, rồi săn bắn và hái lượm để bù đắp cho những gì mà họ không có.

Bình thường, săn bắn và hái lượm cần phải có sự cho phép từ chính quyền, nhưng vị cựu vương, Albert, đã để mặc cho họ làm điều đó. Tôi cũng đã tiếp tục sử dụng cách làm đó sau khi lên ngôi. Vì tôi đã phải đối mặt với hàng núi vấn đề cần phải giải quyết hơn cả vấn đề của dân tị nạn, thế nên lựa chọn duy nhất của tôi lúc đó là hỗ trợ họ ở một mức độ tối thiểu và để cho họ sống yên ổn.

Cho dù là vậy, tôi cũng không thể gọi điều kiện sống mà họ đang có là đàng hoàng được, nhưng dù sao thì họ ít nhất cũng nhận được một số trợ cấp, còn hơn là không có gì.

Tình trạng của những người dân tị nạn trên Đại lục này rất éo le. Những quốc gia có đủ khả năng để cho họ sống yên ổn chỉ có Vương quốc chúng tôi hoặc Đế quốc, những quốc gia có đủ tiềm lực sức mạnh để san sẻ. Tôi nghe nói rằng ở những quốc gia giáp với Lãnh địa Quỷ Vương họ còn bị ép buộc phải tòng quân và gửi ra tiền tuyến, trong khi những những quốc gia khác thì bắt họ làm việc như những nô lệ rẻ tiền trong hầm mỏ dưới cái mác là che chở cho những người tị nạn.

Đối với những người dân tị nạn bị trôi dạt đến những quốc gia nằm xa lãnh địa Quỷ Vương như quốc gia chúng tôi, họ chỉ thấy được một điều rằng chẳng có nơi nào an toàn cho họ trên khắp Đại lục này.

Tôi bước đi dọc theo khu trại tị nạn, theo sau người thanh niên trẻ được vị trưởng lão Bí Lang tộc gửi đến làm người dẫn đường cho tôi.

Cảnh tượng nơi đây khiến tôi nhớ lại cái khu ổ chuột của ngày trước. Chỉ cần nhìn vào tình trạng của người dân ở đây thôi cũng đã đủđể biết rõ tình trạng vệ sinh ở đây tồi tệ đến mức nào. Quần áo của họ thì rách nát tả tơi còn người của họ thì bám đầy bụi bẩn.

Tuy vậy, chẳng ai trong số họ mang một ánh mắt vô hồn cả. Từng người trong số họ đều mang một ánh mắt tràn đầy sức sống.

“Nơi đây thật bẩn thỉu, nhưng… tất cả họ đều mang một ánh mắt mạnh mẽ đến lạ kỳ,”- Hilde lên tiếng, cô ấy đang phải dùng một mảnh vải để che mũi và miệng của mình lại ngay từ lúc chúng tôi tiến vào ngôi làng. Đây quả là một cảnh tượng chẳng mấy dễ chịu cho một người ưa sạch sẽ chút nào cả.

Liscia và những người khác đều mang một khuôn mặt sầu não.

“Bọn họ đã cố gắng chạy nạn từ tít vùng phía Bắc đến đây chỉ bằng ý chí được sống của mình,” – tôi nói. “Anh tin chắc rằng người dân ở đây có khi còn gan dạ hơn cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng ra đấy.”

Những con người này đã phải đối mặt với những khó khăn mà họ không thể làm gì được trong thời chiến hay thiên tai, nhưng họ vẫn không rơi vào cảnh tuyệt vọng, quả thực họ có một sức mạnh thật kinh ngạc. Dù vậy, thứ sức mạnh đó… cũng có thể là một mối nguy hiểm. Trong khi điều đó sẽ giúp họ củng cố được ý chí để cùng nhau vượt qua nghịch cảnh, nó cũng khiến cho ý thức nhóm có khả năng trở nên quá mạnh mẽ và làm suy yếu đi ý thức cá nhân của họ.

Nếu một tên lãnh đạo kì quặc nào mà xuất hiện vào lúc này, toàn thể nhóm sẽ dễ dàng bị lay chuyển bởi lối suy nghĩ của tên đó. Tôi thực sự không muốn bất cứ tên nào có mối liên hệ với Giáo Hoàng quốc Lunaria đến liên hệ với họ đâu.

Trong khi tôi vẫn đang suy nghĩ về điều đó, Liscia cất tiếng.

“Cơ mà… Kazuya này. Anh nói rằng anh đã trợ cấp cho họ, nhưng thực tế thì anh đã làm gì?”

Vừa nãy cô ấy đã gần như gọi tôi là Souma, nhưng ở một nơi thế này, tôi đã bảo cô ấy cố hạn chế việc gọi tên tôi (cơ mà, chính xác hơn đó là cái họ của tôi) hết mức có thể.

“Thực ra thì không có nhiều, nhưng chúng ta cũng đã cung cấp cho họ lương thực và củi đốt, cùng với một số nhu yếu phẩm khác, và chúng ta cũng đã ủy thác một nhiệm vụ bảo vệ nơi này cho Hội Mạo hiểm giả.” – tôi đáp.

“Về việc trợ cấp lương thực thì em hiểu, nhưng tại sao phải thuê mạo hiểm giả bảo vệ chứ?”

“Những người này không phải là thần dân của đất nước chúng ta. Hơn thế nữa, họ đã mất đi đất nước đã từng luôn đứng sau và bảo trợ cho họ. Lấy ví dụ, nếu thần dân của đất nước chúng ta bị giết ở vùng ngoại bang mà không có lý do gì chính đáng, còn thủ phạm thì không bị trừng trị, với tư cách của một vị vua anh sẽ gửi một lời khiếu nại đến quốc gia đó, và sẽ đưa ra những biện pháp trừng phạt với họ nếu tình hình có lợi. Những trường hợp khác cũng tương tự vậy. Nói cách khác, việc đó sẽ tạo nên một cuộc xung đột quốc tế.Khả năng xảy ra một cuộc xung đột quốc tế chính là thứ chế ngự thần dân của chúng ta lại để họ không gây ra những tội ác ở đất nước khác. Nhưng…”

Tôi tạm dừng một lát và đưa mắt nhìn những người dân trong trại.

Rồi tôi tiếp tục, “Nếu là những người dân không thuộc đất nước nào thì chẳng có bất cứ thứ gì để chế ngự cả. Sẽ có những người có ý nghĩ sai lầm rằng ‘Mặc dù không có thứ gì để chế ngự, nhưng cũng đâu có bất cứ cuộc xung đột quốc tế nào đâu, vậy thì ổn mà’. Không có bất cứ cuộc xung đột quốc tế nào không có nghĩa là họ sẽ không bị phán xét theo luật lệ của đất nước này, dù vậy những rào cản tâm lý phạm tội của con người vẫn sẽ bị hạ thấp xuống đến mức một số người có thể gây ra tội ác. Đó chính là lý do vì sao anh muốn những người tị nạn phải nhanh chóng tự nguyện trở thành thần dân của đất nước này.”

Nếu họ làm được điều đó, tôi có thể cho họ nơi ở và đối đãi với họ như những thần dân của mình. Tuy vậy, tôi biết rõ rằng việc đó nghe thì có vẻ dễ đấy nhưng để thực hiện được thì không hề như vậy đâu. Không phải thứ nào trên thế giới này cũng có thể tiếp cận được bằng việc nói lý lẽ.

“Một khi đã đánh động đến lòng người, mọi chuyện sẽ trở nên cực kỳ khó khăn,” – tôi nói.

“Đúng vậy…” – Liscia gật đầu.

Bất chợt chúng tôi nghe thấy một tiếng hét từ bên trong ngôi làng. Cùng với đó là tiếng kim loại va chạm vào nhau.

Liscia nhíu mày. “Có vẻ như là ai đó đang đánh nhau. Rất nhiều người là đằng khác.”

“Đi nào,” – tôi nói.

Tất cả chúng tôi liền hối hả chạy thật nhanh về phía tiếng động huyên náo đó.

———————————————-

Khi chúng tôi xuất hiện tại trung tâm của vụ hỗn loạn, có một nhóm gồm cả thanh niên và phụ nữ trông có vẻ như là một nhóm mạo hiểm giả, cùng với một số ít người dân của ngôi làng, đang đánh nhau với một nhóm hơn 10 người đàn ông trông có vẻ như là lính đánh thuê. Phía mạo hiểm giả gồm có một tay kiếm sĩ trẻ, một đấu sĩ cơ bắp, một người phụ nữ sử dụng kiếm ngắn trông như một đạo tặc, và một người pháp sư xinh đẹp.

… Khoan đã, họ đều là những gương mặt quen thuộc.

Vậy ra Juno và nhóm của cô ta đã nhận nhiệm vụ này ư?

Kiếm sĩ Dece, Đấu sĩ Augus, Đạo tặc Juno, và Pháp sư Julia. Họ chính là những thành viên của nhóm mạo hiểm giả mà tôi hay đi cùng khi tôi cho Tiểu Musashibo đi thám hiểm.

“Này cậu kia, toàn bộ chuyện này là sao vậy?” – Owen hỏi người đàn ông đang đứng run rẩy gần đó.

“Nh-những tên này đột nhiên xuất hiện, rồi bọn chúng cố bắt cóc bọn trẻ đi! Bọn chúng thậm chí còn chém gục một người cố ngăn chúng lại! Sau đó thì, bọn chúng chạm trán với những mạo hiểm giả nghe thấy những tiếng ồn và vội vã chạy đến đây!”

Một người đã bị chém gục ư? Khi tôi nhìn vào một góc gần đó, tôi thấy một người đàn ông bê bết máu đang được một một vị tu sĩ chữa trị, là Febral.

Tôi liền nhanh chóng ra lệnh. “Carla, Owen, hỗ trợ các mạo hiểm giả.”

“Rõ, thưa Chủ nhân!”

“Tuân lệnh!”

“Hilde, tôi cần cô giúp vị tu sĩ đằng kia,” – tôi tiếp tục. “Liscia, em đứng ở đây chờ lệnh.”

“Rồi rồi. Đành phải vậy thôi,” – Hilde đáp.

“Urgh… vâng,” – Liscia nghe theo mệnh lệnh của tôi.

Carla và Owen ngay lập tức xông tới, còn Hilde thì tiến về phía người đang bị thương kia. Tôi đang định chuẩn bị một con rối, đề phòng trường hợp cần thiết, nhưng rồi tôi chợt nhận ra hôm nay mình chẳng mang theo con rối nào. À đúng rồi… tôi đã bỏ chúng ở nhà vì tôi nghĩ rằng không nên mang theo quá nhiều hành lý cho chuyến đi ra ngoài tường thành. Thế là tôi rút thanh kiếm tôi mang trên người như vật trang trí và đứng vào tư thế sẵn sàng chiến đấu.

“Nếu tình thế bắt buộc, anh có chiến đấu được không đấy?” – Liscia hỏi tôi, thanh kiếm lưỡi mỏng của cô ấy cũng đã ở tư thế sẵn sàng.

“Anh chả biết nữa,” – tôi thừa nhận. “Owen đã quần anh từ bữa đến giờ, nhưng ông ta bảo rằng anh chỉ mới tốt hơn một chút so với những tân binh.”

“Thế thì chẳng yên tâm một chút nào cả,” – cô ấy nói. “Dù vậy, theo em thấy, bọn chúng tuy khá đông người, nhưng chẳng ai trong số chúng thực sự mạnh cả. Nhưng em cũng không cho rằng tất cả bọn chúng yếu hơn một tân binh đâu. Nếu có chuyện gì xảy ra, hãy nấp sau lưng em.”

“Thế thì thảm quá, nhưng thôi đành vậy,” – tôi đáp.

Tôi chẳng muốn thể hiện rằng mình yếu đuối chút nào cả, nhưng nếu tôi nhảy vào, có khả năng tôi sẽ chỉ gây ra rắc rối cho người của tôi. Tôi đang nắm giữ một vị trí mà tôi không thể xem nhẹ việc bị thương được. Đó là những gì tôi nghĩ, nhưng…

“Ah!”

“Chờ đã!” – cô ấy hét lên. “Chúng ta vừa mới nói xong mà, sao anh lại chạy lên phía trước vậy hả?”

Tôi nghe giọng của Liscia đằng sau, nhưng tôi không thể dừng lại được. Juno xui xẻo thế nào đã vấp phải một nhánh cây ném về phía cô ấy và té nhào. Ngay lúc đó một tên có mái tóc trông như cái mào gà liền sấn tới. Khi đang chạy về phía họ, tôi liền nhặt một mảnh gỗ nằm dưới mặt đất.

“Nằm xuống mau! Juno!” – tôi quát lên và ném mảnh gỗ về hướng gã đàn ông như một cái đĩa.

“Huh? Uwah!” – Juno hét lên và cúi đầu xuống.

Tên đầu mào gà liền chém vào mảnh gỗ đang bay đến. Bởi vì đòn tấn công này khiến hắn hoàn toàn bất ngờ, hắn không thể chém đứt đôi hoàn toàn mảnh gỗ mà chỉ chém đứt được một nửa. Nhờ đó, có vẻ như những mảnh gỗ đã văng vào mắt tên đầu mào gà đó.

“Ow! Chết tiệt!” – Tên đầu mào gà đưa tay lên che mắt, vung kiếm tứ tung và lui lại.

Tôi tận dụng sơ hở này và nhảy vào khoảng trống giữa 2 người họ. Tầm nhìn của hắn chắc hẳn đã hồi phục lại, vì tên đầu mào gà đó đang xông đến tôi.

Bình tĩnh nào! Một nhát thôi! Tôi chỉ cần đỡ được một nhát, rồi sau đó Juno sẽ lấy lại được thăng bằng! Chỉ cần nhớ lại những đường cơ bản mà Owen đã nhét vào đầu mình là được!

Tên đầu mào gà giơ thanh kiếm lên cao. Hắn ta đang định bổ vào đầu của tôi.

Tôi liền bước chéo chân trái của mình lên và thủ thế với thanh kiếm giơ lên cao khỏi đầu theo hướng nằm ngang, mũi kiếm hơi hướng về phía mặt đất. Ngay khoảnh khắc tiếp theo…

Clang!

Tiếng kim loại va nhau liền vang lên, và rồi, cùng với một tiếng rít, thanh kiếm của tên đầu mào gà trượt khỏi thanh kiếm của tôi rồi chuyển hướng cắm xuống mặt đất ngay bên phải tôi.

Mình làm được rồi… Làm được rồi! – Tay tôi tê dại cả đi, nhưng bằng cách nào đó tôi đã đỡ được thành công rồi!

“”Đừng có đứng như trời trồng như thế!”” – Liscia và Juno cùng hét lên.

Ngay lúc tên đầu mào gà đang cố gắng lấy lại thăng bằng, Liscia và Juno cùng một lúc đâm thanh kiếm của họ vào hắn ta. Tên đầu mào gà liền đổ gục xuống.

Ngay khi Liscia đã chắc chắn rằng kẻ thù không còn động đậy nữa, cô ấy liền túm lấy ngực áo của tôi. Kéo tôi lại gần khuôn mặt của cô ấy. “Anh nghĩ mình đang làm gì vậy hả, xông ra như thế nguy hiểm lắm biết không?!

Trông Liscia có vẻ tức giận, nhưng khi nhìn gần, tôi thấy đôi mắt của cô ấy đang ngấn lệ.

“Ơ, ừm… anh xin lỗi…”

“Không, không có ‘xin lỗi’ gì hết! Anh vừa khiến tim em gần như ngừng đập luôn đấy. Nếu có chuyện gì xảy ra với anh… thì em… chúng em biết phải làm sao đây…?”

Nghe giọng của Liscia như muốn vỡ òa ra, tôi có thể cảm nhận được cô ấy lo lắng cho sự an toàn của tôi đến mức nào. Niềm hạnh phúc pha lẫn với mặc cảm tội lỗi khiến ngực tôi đau nhói.

“Không, thật đấy, anh thực sự xin lỗi!” – tôi nói. “Một người mà anh quen biết đang bị tấn công, thế nên anh đã hành động mà không suy nghĩ…”

“Này, cậu kia!”

Bất chợt cổ áo của tôi bị ai đó nắm lấy và kéo giật về hướng đối diện. Khi tôi quay đầu lại nhìn, Juno đang nhìn trừng trừng vào tôi với một ánh mắt cực kỳ ngờ vực.

“Cậu gọi tôi là Juno, đúng không?” – cô ấy quát lên. “Tại sao cậu biết tên tôi?”

“Ơ không… cái đó, ưm…”

“Chờ đã, So – Kazuya.” – Liscia trừng mắt nhìn tôi, trông cô ấy cô ấy có vẻ khá bực bội bởi một nguyên nhân khác với trước đó. “Cô gái này là ai?”

Cô ấy đã gần như gọi tôi là Souma, nhưng vì Juno đang đứng ngay cạnh chúng tôi, cô ấy liền chuyển sang cái tên mật của tôi.

Vâng, đó quả thực là một phản xạ khá nhanh đấy. Nhưng mà lúc này đây, tôi chỉ muốn cô ấy đừng có nhìn trừng trừng vào tôi như vậy.

Tôi hiện đang bị kẹp giữa 2 cô gái dễ thương, và cả hai người họ đều đang nhìn chằm chằm vào tôi. Một số người có thể sẽ ghen tỵ với cái tình cảnh của tôi hiện tại, nhưng đáng tiếc thay, tôi lại không được trang bị đầy đủ bùa phép để tận hưởng nó một cách đầy đủ đâu.

Cái tình cảnh này… Mình phải giải thích thế nào bây giờ? – tôi tự hỏi.

Hay chính xác hơn là, tôi nên bắt đầu từ đâu đây? Tôi có nên bộc lộ thân phận của mình chính là người bên trong Tiểu Musashibo không (hay chính xác hơn là, người điều khiển nó)?

Ánh nhìn của Juno chuyển sang Liscia. Chắc hẳn đã có thứ gì đó khiến cô ấy chú ý, bởi vì cô ấy đang quan sát Liscia rất kĩ càng. “Này, tôi cũng có cảm giác là tôi đã gặp cô ở đâu đó rồi thì phải.”

“Hả?” – Liscia hỏi. “Ah!”

Liscia kéo mạnh tay tôi, rồi thì thầm vào tai tôi, “Cô gái này, cô ta là người đã ở trong cái buổi tiệc đó đúng không?”

Huh? Oh! Giờ nghĩ lại thì, Liscia đã từng gặp Juno rồi đúng không nhỉ? Liscia đã nhận ra Juno, nhưng xét theo phản ứng của Juno, cô ấy vẫn chưa nhận ra Liscia. Có lẽ là bởi vì hiện tại Liscia đang cải trang một chút.

Juno đưa tay lên chống hông, làm một bộ mặt giận dữ. “Hai người đang thì thầm cái gì đó? Trông mờ ám quá.”

“Không, chẳng mờ ám chút nào cả đâu mà, thật đấy…” – tôi đáp.

Khi Juno nhìn chằm chằm vào tôi với ánh mắt kiên quyết như vậy, tôi có một cảm giác thật ngượng ngùng. Ngay lúc đó, Carla và Owen sau khi đã dọn dẹp xong mấy tên cướp kia, quay trở lại chỗ tôi.

“Người làm cái gì vậy hả, Chủ nhân?!” – Carla quát lên. “Tự mình chạy ra chiến trường như vậy nguy hiểm lắm đấy biết không?!”

“Gahaha!” – Owen phá lên cười. “Thần đã thấy rồi. Kĩ năng vung kiếm mà thần đã dạy Người cuối cùng cũng đã có ích rồi đấy?”

Nhìn thấy được thời cơ để tách khỏi cái bầu không khí hiện tại này, tôi liền trườn ra khỏi vị trí bị kềm cặp giữa Liscia-Juno và phóng thẳng đến chỗ 2 người kia.

“A! Này! Giải thích rõ ràng cho tôi trước đã!” – Juno gọi với theo tôi.

Bỏ qua lời phàn nàn của Juno, tôi liền hỏi Carla và Owen, “Làm tốt lắm, hai người. Vậy, bọn chúng là ai thế?”

“Theo như những gì thần thu thập được, có vẻ như đó là một tên buôn nô lệ và những tùy tùng của hắn,” – Carla đáp.

“Một kẻ buôn nô lệ ư?” – tôi nhắc lại từ đó.

“Là do Người đã quốc hữu hóa hình thức buôn bán nô lệ đấy, thưa chủ nhân,” – cô ấy giải thích. “Thần nghe nói là người còn siết chặt hình thức kiểm tra xét duyệt nữa. Điều đó đã đẩy những kẻ buôn nô lệ đến từ những quốc gia khác ra khỏi đất nước chúng ta, và những người sở hữu nô lệ không vượt qua được bài kiểm tra cũng phải rời đi để đến những quốc gia khác. Những tên này chính là một nhóm sở hữu nô lệ không vượt qua được bài kiểm tra xét duyệt đấy.”

Tôi đã biến những nhà buôn nô lệ thành quan chức hành chính vài ngày trước. Tôi vẫn chưa thể bãi bỏ chế độ nô lệ, nhưng để biến nó trở thành thứ chỉ còn là hư danh, tôi đã cố gắng biến những nô lệ từ việc bị đối xử như đồ vật thành được đối xử như những lao động và con người. Để hoàn thành được điều đó, tôi đã làm cho những kẻ chủ sở hữu đối xử với nô lệ như đồ vật và ngược đãi họ không vượt qua được bài kiểm tra xét duyệt.

“Nhưng tại sao bọn chúng lại nhắm vào những người dân tị nạn?” – tôi hỏi.

“Để làm chi phí cho chuyến đi hải ngoại của chúng, chắc chắn là chúng đã định bắt cóc những phụ nữ và trẻ em trông có vẻ được giá,” – Carla đáp. “Bởi vì dân tị nạn không phải thần dân của đất nước này, bọn chúng chắc hẳn nghĩ rằng chính quyền sẽ không chủ động trong việc bảo vệ họ.”

“Còn lâu bọn ta mới không làm việc đó!” – tôi quát lên.

“N-người đâu cần phải nói ra những lời đó với thần,” – Carla nói với một vẻ mặt bối rối, khiến tôi chợt tỉnh ngộ. Đúng vậy, thật không phải khi quát vào mặt Carla những lời như thế.

“Tôi xin lỗi,” – tôi nói. “Xin lỗi vì đã mất bình tĩnh.”

“Không…”

“Carla, phiền cô một một chuyện, cô có thể bay về lâu đài và báo cáo việc xảy ra ở đây cho Hakuya biết được không?” – tôi thỉnh cầu cô ấy. “Tôi chắc rằng anh ta sẽ báo lại việc này cho những người có thẩm quyền và đưa ra những tính toán ngay lập tức.”

“Rõ ạ. Thần hiểu rồi.”

Ngay sau khi nói ra những lời đó, Carla liền dang rộng đôi cánh của cô ấy ra và bay lên trời, tức tốc hướng về phía tòa lâu đài. Trong khoảnh khắc đó, bất chợt tôi thoáng nhìn thấy bộ dây thun bó quần của cô ấy, tôi liền vội vã nhìn ra chỗ khác.

Không, anh không hề nhìn thấy gì hết. Nên, xin em đấy, Liscia, đừng nhìn anh bằng cái ánh mắt đó.

Sau đó, cùng thời điểm với lúc Carla rời đi, Hilde quay lại chỗ tôi đứng. “Chúng tôi đã hoàn thành việc chữa trị vết thương rồi. Tuy chúng đều không phải là những vết thương nhẹ, nhưng có lẽ là nhờ người tu sĩ đó xử lý kịp thời. Nên những vết thương đó đều đã khép miệng nhờ ma thuật.”

“Tôi biết rồi… Thật tốt quá…”

“Nhưng giờ thì cậu định làm gì đây?” – Hilde hỏi. “Có vẻ như đám đông đã bắt đầu tụ tập lại đây rồi đấy.”

Tôi ngước lên nhìn xung quanh, đã có những người dân tị nạn bắt đầu tụ tập lại khi nghe thấy được tiếng huyên náo. Chúng tôi đã giữ kín thân phận từ nãy đến giờ rồi, nên tôi không muốn bị bại lộ lúc này. Tôi gọi Owen và Liscia đến.

“Cứ để nhóm mạo hiểm giả giao những kẻ này cho người có thẩm quyền. Chúng ta sẽ đến gặp người trưởng làng theo như kế hoạch đã định.”

“Đã rõ, thưa Bệ Hạ,” – Owen đáp.

“Còn Juno thì sao, anh không định làm gì với cô ấy à?” – Liscia hỏi.

“Anh chẳng tìm ra được cách nào tốt để giải thích cái tình hình này cả. Bên cạnh đó, sẽ không tốt nếu để lộ ra vị vua của đất nước hóa ra chính là chú Tiểu Musashibo.”

“Đúng vậy, nếu người dân mà phát hiện ra Đức vua của họ lại đi chơi búp bê thì thật sự chả nghiêm túc một chút nào cả.” – Liscia gật đầu, trông có vẻ hài lòng với câu trả lời của chính mình.

Thế là chúng tôi liền vội vã rời khỏi chỗ đó.

“A, này! Đợi đã!” Juno gọi với theo khi cô ấy nhận thấy được điều đó, nhưng tôi không có ý định đứng đợi đâu.

Chậm quá đấy, chuồn thôi!

Ơ mà, khoan đã, cô ta mới là đạo tặc cơ mà.

————————————————————–

Để lại công việc dọn dẹp cho nhóm của Juno, chúng tôi hướng thẳng về phía trung tâm của trại tị nạn để hoàn thành cái mục đích ban đầu của chúng tôi là gặp vị trưởng làng. Sau một khoảng thời gian đi theo người hướng dẫn, cuối cùng chúng tôi được dẫn đến một ngôi lều lớn trông giống như một cái lều Mông Cổ.

Khi chúng tôi bước vào ngôi lều, một người đàn ông cao lớn, đang ngồi xếp bằng với cả 2 tay chống dưới sàn, đang cúi đầu chào chúng tôi. Đó là một tư thế chào mà tôi thường thấy các chư hầu hay làm với lãnh chúa của họ trong những bộ phim truyền hình dài tập.

Người đàn ông to cao lớn ấy trông khoảng chừng 30 tuổi, để mô tả một cách đơn giản, trang phục của anh ta khiến tôi gợi nhớ đến bộ đồ của những người thổ dân châu Mỹ hay kiểu tương tự vậy. Anh ta có một làn da rám nắng, một thân hình cơ bắp, và mặc dù trời rất lạnh, bộ đồ da của anh ta không hề có ống tay. Và gương mặt của anh ta được tô vẽ những đường nét khá kỳ lạ.

Đằng sau anh ta là một cô gái với trang phục tương tự như vậy và cũng đang ngồi với cùng một kiểu tư thế. Tuổi của cô ấy có lẽ cũng không chênh lệch mấy so với Liscia hay Roroa. Cô ấy là một cô gái dễ thương với một mái tóc nâu đen toát lên vẻ mộc mạc. Gương mặt của họ có những nét giống nhau, thế nên 2 người họ có lẽ là anh em ruột.

“Thần xin cảm ơn Người đã ghé thăm, thưa Hoàng đế vĩ đại của Friedonia,” – người đàn ông lên tiếng.

“Ồ thôi nào, anh làm ơn đừng có gọi ta là Hoàng đế vĩ đại hay gì đó tương tự vậy được không?” – tôi nói. “Ta không thích cái danh hiệu đó một chút nào cả.”

Tôi ngồi xuống trước mặt người đàn ông cao lớn đó. Không phải ngồi trên ghế, mà ngồi trực tiếp xuống tấm thảm đã được trải ra. Giống như người Nhật Bản thường hay làm.

Từ cảm giác mang lại, tôi có thể đoán rằng có vẻ như có một tấm gỗ phía dưới cái thảm. Trông không có vẻ gì là chúng được trải trực tiếp trên mặt đất.

Liscia ngồi xuống cạnh tôi, còn Owen, Hilde, và Carla đã quay trở lại, ngồi đợi phía sau chúng tôi.

Người đàn ông cao lớn kia nói, “Thần hiểu rồi…” – gương mặt của anh ta trầm tư. “Vậy thần nên gọi Người là gì đây ạ?”

“Đức vua Souma… Bệ Hạ… cứ gọi ta thế nào cũng được.”

“Rõ, thưa Đức vua Souma. Thần là Jirukoma. Thần là trưởng làng của ngôi làng tị nạn này. Thần có nghe rằng Người vừa mới giúp đỡ một số người dân làng của chúng thần, thần xin cảm tạ Người từ tận đáy lòng.” – Jirukoma cúi đầu xuống thật thấp.

“Ta là Souma Kazuya, người hiện đang là vua của đất nước này,” – tôi nói. “Những người đã giúp đỡ họ chính là những mạo hiểm giả được phái tới đây. Nếu ngươi muốn cảm ơn, thì hãy cảm ơn bọn họ.”

“Không, những mạo hiểm gia xuất hiện ở đây chính là nhờ Người đã hỗ trợ,” – Jirukoma nói. “Thần cảm tạ Người vì điều đó, và về nguồn trợ cấp mà Người đã trao cho chúng thần.”

“Ta sẽ chấp nhận lời cảm tạ của ngươi. Nhưng, ngươi biết mà đúng không, ta không đến đây để nghe lời cảm tạ của ngươi?”

Gương mặt của Jirukoma cứng đờ lại. Chắc chắn anh ta biết mục đích của tôi khi đến đây. Dù sao thì, anh ta đã nói chuyện với những sứ giả mà tôi phái đến đàm phán biết bao nhiêu lần rồi còn gì.

“Ta đến để thúc ngươi đưa ra quyết định,” – tôi nói. “Ngươi cũng đã nghe lời thương nghị của những sứ giả mà ta phái đến rồi đúng không? Ngày hôm nay ta đã thân chinh đến đây, thế nên hôm nay chính là ngày mà ngươi phải đưa ra quyết định cuối cùng của mình. Ngươi sẽ chọn gì?”

“Về chuyện đó…!”

“Ngồi yên đó, Komain,” – người đàn ông lên tiếng.

“Nhưng mà, anh!”

Cô gái định đứng dậy, nhưng Jirukoma liền ra hiệu bảo cô ấy dừng lại.

Tên của cô gái đó là Komain à? Họ là anh em ruột, đúng như tôi nghĩ.

Jirukoma bảo với cô ấy, “Những lời của chúng ta lúc này sẽ quyết định vận mệnh của mọi người trong làng. Chúng ta không được nổi nóng.”

“… Em hiểu ạ.” – Komain liền ngồi xuống.

Khoảnh khắc đó, Owen và Carla đằng sau tôi ngay lập tức vào tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhưng Komain đã hạ tay của cô ấy xuống, vì thế họ cũng đã bình tĩnh trở lại.

Một bầu không khí nặng nề đè nặng lên tất cả chúng tôi.

Có lẽ bởi vì diều đó, Liscia liền lên tiếng. “Souma, em muốn anh giải thích cho em biết cái tình cảnh này…”

“Được… Chuyện là anh muốn vấn đề về dân tị nạn phải được xử lý ngay bây giờ,” – tôi nói. “Bởi vì nếu cứ để tình hình như vậy, cả đất nước chúng ta và người dân sống ở đây, chẳng ai được lợi lộc gì cả. Đó là lý do vì sao anh đang bắt người dân tị nạn phải đưa ra một quyết định.”

“Một quyết định ư?” – cô ấy hỏi.

Tôi gật đầu một cách nặng nề, rồi nói thẳng ra. “Hoặc là họ từ bỏ mong muốn trở lại quê nhà và trở thành thần dân của đất nước này, hoặc là họ phải rời đi.”

—————————————————————-

Đối với những người dân tị nạn bị mất đi nhà cửa của mình vì sự xuất hiện của Lãnh địa Quỷ Vương, ước muốn thực sự của họ là được quay trở về quê hương và có được một cuộc sống như họ đã từng có.

Tuy nhiên, trong tình cảnh hiện tại, không hề có một dấu hiệu nào cho thấy điều đó có khả năng thành hiện thực.

Cuộc tấn công bất ngờ vào Lãnh địa Quỷ Vương đã kết thúc thất bại, tiêm nhiễm nỗi sợ hãi đối với Lãnh địa Quỷ Vương vào lực lượng nhân loại.

Ngay cả quốc gia lớn nhất của nhân loại, Đế quốc Grand Chaos, cũng không tự tin trước cái ý tưởng tấn công vào đó thêm một lần nữa. Tất cả các quốc gia giờ đây tập trung hoàn toàn vào việc giữ cho Lãnh địa Quỷ Vương không mở rộng thêm.

Cho dù tại thời điểm nào đó trong tương lai, sẽ có một sự kiện nào đó có thể thay đổi tình hình hiện tại theo hướng tích cực hơn, thì nó cũng không thể nào diễn ra trong vài ngày tới được. Có thể là vài tháng tới. Hoặc thậm chí cho dù là vài năm tới, điều đó có lẽ cũng khó có thể trở thành hiện thực.

Vậy trong trường hợp đó, những người dân tị nạn phải làm gì đây? Chẳng lẽ vẫn cứ phải cầu nguyện về giấc mộng hồi hương, thề không phụng sự cho một quốc gia nào trong khi đang sống ở một vùng đất xa lạ sao?

… Điều đó chẳng tốt đẹp một chút nào. Cái kiểu tư tưởng sai lầm đó chắc chắn sẽ gây ra rắc rối về sau.

“Vị vua đời trước đã cố tình lờ đi sự hiện diện của họ,” – tôi nói. “Còn anh thì phải giải quyết một núi vấn đề khác, thế nên anh cũng đã để mặc mọi chuyện cho đến ngày hôm nay. Anh thậm chí còn đưa ra những chính sách hỗ trợ cho họ, mặc dù chỉ là một chút.”

Jirukoma không nói gì.

“Nhưng giờ đây, tất cả những vấn đề khác đã được giải quyết, anh cần phải giải quyết luôn vấn đề này. Chúng ta không thể cứ hỗ trợ họ mãi được, và sự hiện diện bất hợp pháp của họ ở đây là một vấn đề rắc rối. Chúng ta đã cố tình lờ đi chuyện này từ trước đến giờ, nhưng săn bắn và hái lượm trong lãnh thổ mà không có giấy phép là phạm pháp. Nếu chúng ta tha thứ cho những hành động phạm pháp này, chắc chắn sẽ khiến cho người dân của đất nước này phẫn nộ.”

Bởi vì bọn họ không thuộc đất nước này.

Hiện tại, vẫn còn đâu đó một thái độ cảm thông cho họ vì họ đã mất đi quê hương của mình khi Lãnh địa Quỷ Vương xuất hiện. Tuy vậy, thái độ là thái độ. Bạn không thể biết được khi nào gió sẽ đổi chiều.

Họ không có một tia hi vọng nào cho việc trở về. Nếu chúng tôi cứ hỗ trợ những người không phải-thần dân này hết lần này đến lần khác, và tiếp tục xem nhẹ luật pháp, chẳng bao lâu nữa, cơn giận của người dân ở đất nước này sẽ sục sôi lên. Trong trường hợp tệ nhất, có khả năng sẽ có xung đột giữa người dân và dân tị nạn.

“Đó là lý do vì sao anh phải ép buộc bọn họ đưa ra quyết định,” – tôi nói. “Họ có thể từ bỏ ý định quay trở về quê nhà và trở thành thần dân của đất nước này, hoặc họ có thể chọn không từ bỏ và rời khỏi đất nước này, tiếp tục làm người tha hương. Hôm nay anh ở đây là để bắt họ lựa chọn.”

“Nhưng, Souma, việc đó…”

Gương mặt của Liscia hiện lên vẻ đau khổ, nhưng tôi lẳng lặng lắc đầu.

“Em có thể nghĩ rằng điều này thật độc ác, nhưng đó là điều cần thiết phải làm.”

Tại thế giới mà tôi từng sống, có một quyển sách nói về việc so sánh một nhà nước lý tưởng như một con quái vật và con người như vô số những lớp vảy bao phủ trên người nó. Trên trang bìa của cuốn sách đó, con quái vật được mô tả như một con người với thân hình to lớn hơn cả một ngọn núi. (Leviathan – Thomas Hobbes. Mọi người có thể tham khảo đại ý của nó ở đây)

“Quốc gia là… một thứ giống như một tên khổng lồ vậy,” – tôi nói. “Và con người chính là những chiếc gương phản chiếu nhau. Nếu một người yêu mến ta, ta có thể yêu mến lại họ, và ta sẽ bảo vệ cho họ dù cho có chuyện gì xảy ra. Nếu họ lạnh lùng với ta, ta sẽ lạnh lùng lại với họ. Và chúng ta không thể nào yêu mến một người thù ghét chúng ta được, trừ khi chúng ta là một vị thánh.”

“Ý Người là… quốc gia cũng giống như vậy,” – Jirukoma nói bằng một giọng trang nghiêm.

Tôi gật đầu.

Tôi có thể thấy rõ rằng, nếu mọi chuyện cứ tiếp tục thế này, người dân sẽ bất mãn. Đó là lý do vì sao tôi cần phải hành động để đồng hóa họ trong khi người dân vẫn còn đang cảm thông với họ. Đây là một quốc gia đa chủng tộc. Nếu so sánh với những quốc gia được thống trị bởi một chủng tộc, khả năng chấp nhận bọn họ khá là rộng mở. Tuy vậy, điều đó còn tùy thuộc vào những người dân tị nạn có chịu chấp nhận trở thành thần dân của quốc gia đa chủng tộc hay không.

Tôi đã có đề cập đến chuyện này khi tôi chỉ ra cái lỗ hổng của Tuyên ngôn Nhân loại, một khi chủ nghĩa dân tộc thiểu số phát triển quá mạnh, có khả năng sẽ gây ra nội chiến.

“Nếu ngươi, trưởng làng Jirukoma, và người dân của ngươi vẫn cứng đầu bám vào cái lý tưởng quay trở về quê nhà đó, và nói rằng các ngươi không thể là một phần của đất nước này được, vậy thì ta… buộc lòng phải trục xuất các ngươi.”

Jirukoma nghiến răng. “Tất cả những gì chúng tôi muốn là được quay trở về quê hương của mình thôi.”

“Ta hiểu cảm giác đó,” – tôi nói. “Ta không quan tâm việc các ngươi có níu giữ cái cảm giác đó trong thâm tâm của mình hay không. Nếu hoàn cảnh đổi thay theo hướng tích cực hơn, cho phép các ngươi có thể trở về, ta sẽ không cảm thấy phiền nếu các ngươi làm thế. Tuy vậy, ít nhất thì chừng nào các ngươi còn ở trong đất nước này, ta muốn các ngươi phải có ý thức rằng các ngươi là thần dân của đất nước này. Nếu các ngươi không thể làm được điều đó, thì không có cách nào để ta cho phép các ngươi ở lại đây cả.”

Jirukoma nín lặng.

Komain, từ nãy đến giờ vẫn giữ im lặng, bất chợt đứng dậy. “Người… thì hiểu cái gì chứ?”

“Dừng lại ngay, Komain!” – Jirukoma ra lệnh cho cô ấy.

“Không được, thưa anh, em phải nói ra suy nghĩ của mình! Người là vua của vùng đất này đúng không?! Người có cả một đất nước cho mình! Nỗi đau mất nước là thứ mà Người không bao giờ có thể–”

“Ta hiểu chứ!” – tôi ngắt lời.

Giọng của Komain hét lên đầy giận dữ, nhưng tôi liền nhìn thẳng vào mắt của cô ấy và điềm tĩnh nói.

“Ngươi chắc hẳn đã nghe nói rằng ta được triệu hồi đến đây từ một thế giới khác. Đó hoàn toàn là một chuyến đi một chiều. Không giống như các ngươi, vẫn còn đó chút ít hi vọng, ta không có bất cứ một cách nào để quay trở lại nơi ấy. Đó là lý do vì sao ta có thể hiểu được nỗi đau mất quê hương của các ngươi.”

“Urgh…” – Komain không thể tìm được một lời nào để nói lại.

Liscia cúi gằm mặt xuống. Với cái tính cách nghiêm túc của cô ấy, Liscia chắc hẳn đang cảm thấy tội lỗi bởi chính cha của cô ấy là người đã chia cắt tôi khỏi quê hương của mình, dù ông ta làm việc đó phỏng theo yêu cầu của Đế quốc.

“Nỗi nhớ quê hương là thứ… không dễ để xóa nhòa, ta biết điều đó,” – tôi nói. “Đối với bất cứ người nào, nơi chôn nhau cắt rốn của mình là một thứ gì đó rất đặc biệt. Chỉ khi chúng ta bắt buộc phải mất đi một thứ gì đó, ta mới thấy được nó quý giá đến đâu. Ta có thể dễ dàng nghe thấy những câu chuyện như vậy hằng ngày, nhưng thật sự để chấp nhận nó một cách hợp tình hợp lý như thế không hề dễ một chút nào.”

“Souma…” – giọng của Liscia cất lên, lồng ngực của cô ấy rõ ràng đang rất đau nhói.

Tôi đặt tay lên lồng ngực của cô ấy. Liscia ngạc nhiên mở to đôi mắt của cô ấy ra. Tôi liền nhẹ nhàng mỉm cười với Liscia để trấn an cô ấy.

“Nhưng… trong trường hợp của ta, ta còn có Liscia và những người khác, ta có những người luôn bên cạnh và hỗ trợ cho ta. Ta có những người luôn nghĩ cho ta. Ta đã gắng sức làm việc vì lợi ích của đất nước này nhằm mục đích đáp lại tình cảm họ dành cho ta. Và trong khoảng thời điểm đó, vì một số nguyên nhân nhất định, ta đã bắt đầu có ý nghĩ rằng nơi đây chính là quê hương của mình. Kể từ thời điểm ta nghĩ thông suốt như thế, nếu như ta để mất đi đất nước này, có lẽ ta cũng sẽ buồn khổ như lúc ta mất đi quê hương của mình vậy.”

Cuối cùng thì, quê hương chính là một mối liên kết. Nó chính là điểm kết nối giữa vùng đất và con người sinh sống trong vùng đất đó. Nếu có thứ gì đó có thể khỏa lấp được cái khoảng trống của sự mất mát đó, thì chắc hẳn đó phải là một mối liên kết khác.

Komain bất lực ngồi xuống, và đưa tay lên ôm đầu. Đấy không phải là thứ mà cô ấy có thể ngay lập tức chấp nhận được. Nhưng họ sẽ không thể tiến về phía dưới nếu cứ dậm chân tại chỗ.

“Đó là lý do vì sao ta muốn làm những việc mà Liscia và những người khác đã làm cho ta,” – tôi nhẹ nhàng nói. “Nếu các ngươi sẵn sàng yêu mến đất nước này và muốn trở thành thần dân của nó, đất nước này cũng sẽ chấp nhận các ngươi.”

“Vậy chính xác hơn thì… đất nước sẽ chấp nhận chúng thần như thế nào?” – đôi mắt của Jirukoma càng trở nên nghiêm nghị hơn, hướng về phía tôi với ý đồ dò xét xem mục đích thật sự của tôi là gì. “Thần biết nói ra điều này với Người là quá hỗn xược khi Người đã bày tỏ ý muốn chấp nhận chúng thần. Tuy vậy, chúng thần đã nghe và tận mắt chứng kiến được những sự thật tàn khốc trong chuyến hành trình đến nơi này. Có những quốc gia tuyên bố rằng sẽ thu nhận dân tị nạn, và rồi bắt họ làm việc cực khổ trong các hầm mỏ với tiền lương rẻ mạt. Có những quốc gia đã gửi họ ra tiền tuyến như những người lính trong cuộc chiến chống lại Lãnh địa Quỷ Vương. Rất nhiều trường hợp tương tự như vậy đã xảy đến với họ.”

“Đúng vậy, ta có nghe nói về chuyện đó…” – tôi đáp. “Tuy vậy, ta chỉ thấy được rằng đó là những kế hoạch ngu ngốc.”

“Tất cả những kế hoạch đó đều là ngu ngốc sao?” – Jirukoma hỏi lại.

“Đúng thế. Đầu tiên, gửi họ ra tiền tuyến chính là cái kế hoạch ngu ngốc nhất trong tất cả. Hàng phòng thủ quốc gia chính là điểm trọng yếu của bất cứ chính quyền nào. Nếu họ tin tưởng giao nó cho người ngoài, sau cùng họ sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng quốc gia cực kỳ trầm trọng.”

Đã có rất nhiều ví dụ trong lịch sử của Trái Đất. Chẳng hạn như, Đế quốc Tây La Mã trong Thời kì Di cư đã cố gắng sử dụng những người dân German thiết lập mối quan hệ hòa bình với Đế quốc để đối phó với những cuộc xâm lược của người German, và họ đã tập trung lực lượng quân sự của mình xoay quanh những lính đánh thuê người German. Kết quả là, quân đội của họ trở thành người German, và họ đã bị tiêu diệt bởi vị tướng lĩnh của lực lượng lính đánh thuê người Geman, Odoacer.

Và còn, vào thời nhà Đường của Trung Quốc, việc trao quyền lực cho An Lộc Sơn, có gốc gác là người Sogdian và thuộc dân tộc Đột Quyết, đã dẫn đến một cuộc nổi loạn khiến triều đại của họ bị rút ngắn.

“Đối xử với họ như nô lệ cũng là một kế hoạch ngu ngốc không kém,” – tôi nói. “Điều đó chỉ nung nấu lòng thù hận trong lòng dân tị nạn. Họ sẽ làm gì nếu những người dân tị nạn phẫn uất và âm mưu nổi loạn hay thực hiện những cuộc tấn công khủng bố? Điều họ làm chỉ nuôi dưỡng những mầm họa trong lòng đất nước của mình mà thôi.”

“Vậy… còn chính sách của Đế quốc Grand Chaos thì sao ạ?” – Jirukoma nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi.

Tôi đưa tay lên gãi đầu. “Đúng là chỉ có Nữ Hoàng Maria mới chấp nhận cái chính sách như thế”

Đế quốc cũng đã thu nhận một lượng lớn người dân tị nạn. Và phía Đế quốc đã cung cấp cho dân tị nạn những vùng đất hoang bên trong đất nước của họ, sử dụng chính sách công nhận những người dân tị nạn là những cư dân tạm thời nếu họ chịu khai khẩn mảnh đất đó. Nói cách khác, Đế quốc đã tạo ra một ngôi làng dành cho dân tị nạn, và cho phép họ tự quản lý. Nếu họ có thể tự mình duy trì được, thì Đế quốc sẽ chẳng tốn một đồng ngân sách nào, và nếu như họ tìm được cơ hội quay trở về phương Bắc vào một ngày nào đó, họ sẽ bỏ lại tất cả những mảnh đất mà họ đã khai khẩn. Dù hướng nào đi nữa, Đế quốc cũng không mất mát gì.

Vâng, đó có lẽ là cách mà Maria đã dùng để kết nối mọi người xung quanh cô ấy. Người phụ nữ này tốt bụng đến nỗi được người đời tôn là Thánh nữ mà. Trong thâm tâm của cô ấy, chắc hẳn cô ấy làm vậy là bởi vì cô ấy cảm thấy thương cảm cho những người dân tị nạn. Bằng cách cho họ một cuộc sống tự lập, cô ấy đã cho họ một cơ hội được ở lại Đế quốc trong khi vẫn không từ bỏ ý định quay trở lại quê hương. Và cho dù họ không thể nào trở lại quê hương được nữa, bởi vì nơi sinh sống của họ giờ đây đã ở trong Đế quốc, cô ấy có lẽ tin rằng họ sẽ tự nhiên hòa nhập với những người dân của Đế quốc.

Đó là một hướng tiếp cận hoàn toàn trái ngược với cách mà tôi đang làm, bắt những người dân tị nạn phải từ bỏ ý định quay trở về quê hương và ép họ phải hòa nhập.

Nhưng…

“Rất tiếc, nhưng… vương quốc chúng ta không thể áp dụng chính sách đó được.”

“Tại sao ạ?” – Jirukoma hỏi.

“Vì nó rất nguy hiểm.”

Nếu Đế quốc ban cho những người dân tị nạn những vùng đất hoang và cho phép họ phát triển ở đó, tất nhiên, điều đó không ảnh hưởng đến ngân sách của Đế quốc. Và chừng nào quyền lực của Đế quốc không bị suy yếu đi, dân tị nạn sẽ phục tùng họ và sẽ còn cảm thấy mắc nợ họ nữa. Nếu tiếp tục trong khoảng 100 năm, dân tị nạn chắc chắn sẽ dần dần hòa nhập với cư dân bản địa.

Tuy nhiên, chúng ta chẳng thể nào biết được khi nào thời thế sẽ thay đổi cả.

Quyền lực mà chúng ta nắm giữ hôm nay có thể sẽ mất đi vào ngày mai, đó là lẽ thường ở thế giới của chúng ta. Nếu trường hợp tồi tệ nhất xảy ra, và có một sự kiện gì đó khiến cho quyền lực của Đế quốc bị suy yếu, những người dân tị nạn sẽ phản ứng thế nào đây?

“Đó là mảnh đất mà họ đã khai khẩn bằng chính mồ hôi nước mắt của mình,” – tôi nói. “Chẳng lẽ họ lại không cảm thấy rằng đó là mảnh đất của chính họ hay sao? Đối với thế hệ hiện tại luôn ấp ủ mong muốn trở về quê nhà thì không thành vấn đề. Họ sẽ luôn cảm thấy một mối liên kết chặt chẽ với nơi chôn nhau cắt rốn của mình hơn là nơi mà họ đã bỏ công sức ra khai khẩn. Tuy nhiên, đối với thế hệ tiếp theo thì sao? Cái thế hệ được sinh ra tại nơi khai khẩn đó và chẳng hề biết gì về mảnh đất quê hương của mình thì sẽ thế nào? Liệu họ có chấp nhận sự thật rằng mảnh đất mà cha ông họ đổ mồ hôi nước mắt để gầy dựng nên chỉ là nơi mà họ vay mượn từ Đế quốc không? Chẳng lẽ họ không nghĩ rằng nơi đây chính là quê nhà của họ sao?”

Trong lịch sử Trái Đất, đã có trường hợp của người Serbia. Khi Vương quốc Serbia bị tiêu diệt bởi Đế chế Ottoman, rất nhiều người Serb đã bỏ chạy qua Đế chế Hapsburg (Đế chế Áo-Hung). Đế chế Hapsburg đã mở rộng vòng tay chào đón người Serb. Họ còn cho người Serb xây dựng và phát triển ở vùng đất gần với biên giới của người Ottoman, sử dụng họ như những lính thuộc địa để bảo vệ tiền tuyến. Người Serb vừa xây dựng tiền tuyến vừa giao chiến với người Ottoman. Chính môi trường sống khắc nghiệt đó đã nuôi dưỡng một niềm khao khát tự trị mãnh liệt trong lòng người dân Serb, hình thành nên một vùng đất màu mỡ cho chủ nghĩa dân tộc phát triển.

Trong khoảng thời gian đó, khái niệm về chủ nghĩa dân tộc Serbia nổi lên, gây ra một sự kiện tại Sarajevo và kích động cuộc Chiến tranh Thế giới Lần thứ nhất, và sau cùng tiêu diệt luôn Đế chế Hapsburg.

Hơn thế nữa, những chính sách của Serbia xoay quanh chủ nghĩa dân tộc Serbia đã kích động sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở những tổ chức nhân quyền khác. Mâu thuẫn giữ họ với chủ nghĩa nhân quyền Croatia, thực tế, đã gây ra rất nhiều vụ thảm sát ở cả 2 phía.

Dân tị nạn là một nhóm đa chủng tộc, nhưng họ có khả năng tạo dựng nên một thứ nhận thức chung thông qua việc chia sẻ niềm vui và nỗi đau. Thứ nhận thức chung đó có khả năng sẽ mang đến một bộ mặt chủ nghĩa dân tộc chia cắt dân tị nạn với những người khác. Đế quốc Grand Chaos đã chấp nhận cái rủi ro rằng cái tình cảnh khủng khiếp đó có khả năng sẽ bùng nổ trong tương lai.

Jirukoma nhíu mày. “Vậy Người cho rằng chính sách của Đế quốc là sai lầm ư?”

“Không… Ta không đi xa đến vậy,” – tôi đáp. “Chỉ là lối suy nghĩ giữa chúng ta khác nhau mà thôi. Nữ hoàng Maria lựa chọn chính sách của mình vì cô ấy tin rằng đó là cách tốt nhất. Ta không thể chọn chính sách đó vì ta lo sợ rằng nó sẽ dẫn đến điều tồi tệ nhất. Tất cả là như vậy.”

Tôi đã nhận ra điều này nhờ vào Tuyên ngôn Nhân loại: Đế quốc có khuynh hướng chọn lựa những chính sách mang lại lợi ích cao cả cho dù họ cũng sẽ phải gánh vác những mối họa lớn tiềm ẩn trong đó. Còn phía Vương quốc chúng tôi ít tập trung vào lợi ích hơn mà tập trung chủ yếu vào việc quản lý những rủi ro trong chính sách mà chúng tôi chọn lựa.

Chẳng có hướng tiếp cận nào tốt hơn cả. Câu hỏi đặt ra là hướng tiếp cận nào sẽ phù hợp hơn với cái thời đại mà chúng tôi đang sống, và đó là thứ mà chúng tôi chỉ có thể biết được sau khi mọi chuyện đã rồi.

“Vậy, thưa Bệ Hạ, Người định làm gì với chúng thần?” – Jirukoma hỏi tôi. “Người muốn chúng thần từ bỏ ý định quay trở về quê hương và trở thành thần dân của đất nước này, và sẽ trục xuất chúng thần nếu chúng thần không chấp nhận. Người sẽ không giao cho chúng thần một vùng đất để khai khẩn, không bắt chúng thần làm lính quân dịch hay biến chúng thần thành nô lệ… Vậy chính xác thì Người định làm gì với chúng thần?!”

Lần đầu tiên trong cuộc nói chuyện này, Jirukoma lớn giọng với tôi. Ngay cả Komain, người vẫn luôn chực chờ bộc phát cảm xúc, cũng phải rùng mình khi anh ta làm thế.

Jirukoma đang phải gánh vác vận mệnh của tất cả những người dân tị nạn ở đây trên vai của mình. Áp lực về chuyện này chính là thứ đang đè nặng lên anh ta. Tuy vậy, tôi cũng đang mang một gánh nặng của riêng mình.

“… Owen.”

“Vâng, thưa Bệ Hạ.”

“Mang cái thứ mà chúng ta đã thảo luận lúc trước ra đây.”

“Rõ.”

Tôi bảo Owen lấy một cái ống dài ra và đưa cho tôi. Đó là một loại ống dày giống như cái hay dùng để làm bằng cấp nhưng dày khoảng gấp đôi và dài hơn gấp 5 lần. Bên trong đó là một mảnh giấy cực lớn được cuộn lại trong một cái ống. Tôi mở mảnh giấy đó ra trước mặt mọi người. Đôi mắt của Jirukoma và Komain liền đồng loạt mở to khi họ trông thấy thứ được vẽ bên trong mảnh giấy đó.

“Đó là… một thành phố ư?” – Jirukoma cất tiếng hỏi.

“Đúng vậy,” – tôi đáp. “Chính là cái thành phố mới đang được xây dựng ở vùng ven biển. Tên của nó là Venetinova.”

Tôi đang cho họ thấy tấm bản đồ của thành phố mới, Venetinova, mà tôi định xây dựng như một điểm chiến lược trong việc vận chuyển hàng hóa và thương mại nhằm mục đích đẩy cao tốc độ phân phối hàng hóa.

“Đây chính là cái thành phố mà ta đã tiến hành khởi công cùng thời điểm với lúc khai trương mạng lưới tuyến đường vận chuyển khi ta lần đầu tiên đặt chân đến đất nước này, nhưng hiện tại thì nơi đó chỉ vừa mới sẵn sàng để người dân dọn đến sinh sống,” – tôi nói. “Chúng ta sẽ chỉ còn phải tạo ra khu dân cư, khu thương mại, và khu cảng vận chuyển là xong. Kể từ lúc này, sẽ có nhiều tổ chức hơn nữa được thêm vào, và ta dự định xây dựng nó trở thành một thành phố đi đầu xu thế văn hóa. Và sớm thôi chúng ta cũng sẽ kêu gọi người dân đến định cư.”

Tôi hướng mắt về phía Jirukoma và Komain rồi nói, “Ta đang dự định sẽ bao gồm cả những người dân tị nạn vào nhóm những người dân định cư ở đây.”

Lời của tôi khiến Jirukoma và Komain hồi hộp nuốt nước bọt.

“Nếu các ngươi chịu từ bỏ ý định trở về quê hương và trở thành thần dân của đất nước này, ta sẽ chuẩn bị nơi ở cho tất cả các ngươi,” – tôi nói. “Đây là một thành phố mới, thế nên sẽ có rất nhiều việc làm. Mọi thứ từ lao động phổ thông như vận chuyển hàng hóa cho đến làm nhân viên trong các cửa hàng. Và ta cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ tài chính cho các ngươi trong một khoảng thời gian nữa. Nếu các ngươi trở thành thần dân của đất nước này và làm việc tận tâm như Tộc Bí Lang, ta sẽ chuẩn bị cho các ngươi một nơi ở mà các ngươi sẽ không bao giờ còn bị lâm vào tình cảnh đói rét.”

“Điều đó…”

Biểu cảm gương mặt của Jirukoma và Komain liền rúng động.

Thật kì lạ khi chính mình phải nói ra điều này, nhưng hiện tại không biết là trong mắt 2 người Jirukoma và Komain đây, mình trông như thế nào nhỉ. Liệu mình sẽ là ân nhân xuất hiện trước mặt họ đúng lúc họ cần… hay là một tên ác quỷ, lừa họ bằng những lời đường mật?

Jirukoma và Komain đều đồng loạt mở miệng.

“Người thực sự sẽ ban cho chúng thần những thứ tuyệt vời như vậy ư?” – Jirukoma thốt lên.

“Thứ mà Người đang đề nghị với chúng tôi thật kinh tởm!” – Komain hét lên.

Jirukoma và Komain liền quay lại nhìn nhau. Cả hai đều trông có vẻ kinh ngạc còn hơn cả người đối diện, mặc dù họ cùng lúc cất tiếng, nhưng quan điểm của họ hoàn toàn trái ngược nhau.

“A-anh đang nói cái gì vậy?! Điều hắn ta đang nói chẳng khác nào, ‘Đây, ta cho ngươi một miếng mồi ngon này, giờ thì vẫy đuôi với ta đi’!”

“Komain,” – Jirukoma nói. “Bệ Hạ đang muốn ban cho chúng ta một nền tảng vững chắc để hỗ trợ cho cuộc sống của chúng ta. Mà không cần phải đi khai khẩn đất hoang như phía Đế quốc Grand Chaos.”

“Cho dù là vậy, sao hắn lại bắt chúng ta phải từ bỏ việc quay trở lại quê nhà chứ?! Anh không cảm thấy thất vọng sao?!”

“Nếu chúng ta có thể gạt qua một bên nỗi thất vọng đó, Ngài ấy nói rằng Ngài ấy sẽ giữ cho chúng ta không còn bị đói rét. Em có biết tầm quan trọng của việc đó đối với dân tị nạn chúng ta là thế nào không?”

Hai người anh em ruột thịt này có 2 góc nhìn trái ngược nhau hoàn toàn đối với lời đề nghị của tôi… Điều đó có lẽ cũng hiển nhiên thôi.

“Chẳng ngạc nhiên mấy khi hai người các ngươi không đồng tình với nhau,” – tôi nói. “Chính ta cũng nghĩ rằng lời đề nghị này có thể nói là vừa tử tế vừa độc ác. Chẳng cógì đảm bảo rằng hai người các ngươi sẽ cùng nhìn về một hướng và có cùng quan điểm với nhau cả. Việc một người nghĩ rằng điều đó là tốt hay xấu phụ thuộc vào góc nhìn và cảm nhận của người đó về việc này.”

Cả hai người họ liền im lặng.

Tôi hít một hơi thật sâu, rồi đặt tay lên tấm bản đồ. “Đây là giải pháp tốt nhất mà ta có thể làm cho các ngươi lúc này. Giờ thì, tất cả những gì ta có thể làm là mong chờ rằng các ngươi sẽ nắm lấy bàn tay mà ta đã chìa về phía các ngươi. Kể từ giờ trở đi, quyết định nằm ở phía các ngươi.”

Khi tôi nói xong những lời đó, giọng của Jirukoma rên lên đầy đau đớn. “Sẽ có những người trong ngôi làng này vẫn giữ nguyên ý định hồi hương của mình.”

“Ý ngươi là… giống như em gái của ngươi sao?” – tôi hỏi.

“Không! Komain khá dễ thuyết phục! Em ấy lúc đầu phản đối chỉ là để đại diện cho những người sống trong ngôi làng này không muốn từ bỏ cảm xúc của họ đối với quê nhà mà thôi!”

“A-anh…”

“Anh chắc chắn là vậy,” – Jirukoma nói tiếp. “Nguyên nhân mà em bảo rằng đó là một điều kinh tởm là bởi vì em đã nghĩ cho những người mà em biết rằng họ cũng có cùng suy nghĩ như vậy. Bởi vì em… là một cô gái hiểu rõ nỗi đau của người khác.”

“Urgh…” – Komain chìm vào im lặng. Anh ta đã nói trúng tim đen của cô ấy rồi sao?

Rồi Jirukoma ngồi thẳng lưng lên và cúi đầu của anh ta xuống thấp. “Chúng thần xin đa tạ tấm lòng tử tế của Người, thưa Bệ Hạ. Nhưng đây là việc mà thần không thể tự mình quyết định được, thế nên thần muốn triệu tập tất cả mọi người trong ngôi làng để thảo luận về việc này.”

“Ta nhớ là ta đã nói với ngươi rằng ta đến đây là để hối thúc ngươi đưa ra quyết định, đúng không nhỉ?” – tôi hỏi.

“Thần biết điều đó. Tuy nhiên, thần muốn thuyết phục nhiều người nhất có thể để nắm lấy cánh tay mà Người đã tử tế chìa ra cho chúng thần, thưa Bệ Hạ. Cho dù… điều đó có nghĩa là dân tị nạn sẽ phải lâm vào tình cảnh chia cắt.”

Tôi nín lặng.

Chia cắt dân tị nạn. Nói cách khác, bất cứ ai không đồng ý với đề nghị đó sẽ bị trục xuất.

Liệu đó có phải là điều tốt nhất mà tôi có thể làm lúc này không? Nếu tôi ép họ quá đáng, sẽ chẳng có kết quả nào tốt cả.

“Nhưng hiện tại không còn nhiều thời gian đâu,” – tôi nói. “Dù ta có thể dời lại ngày tìm kiếm lượng dân nhập cư, nhưng ta không thể nào chuyển dời được thời tiết, ngươi biết đấy. Mùa đông đã bắt đầu đến rồi.”

Nếu thiếu sự chuẩn bị cho mùa đông, điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ bị chết cóng. Trẻ em và người già, những người có kháng thể yếu, sẽ là những nạn nhân đầu tiên. Nếu có thể, tôi muốn họ đưa ra quyết định rằng tất cả bọn họ sẽ nhập cư vào đây trước khi trời hoàn toàn vào đông.

Jirukoma một lần nữa cúi đầu thật thấp. “Vâng, thưa Bệ Hạ! Thần biết rõ điều đó.”

“Ừm, thế thì được.”

Giờ mọi chuyện còn lại sẽ tùy thuộc vào họ. Cho dù quyết định của họ có như thế nào, tôi cũng sẽ phải có một lời hồi đáp thật phù hợp.

Nếu có thể, tôi không muốn phải cho họ thấy bộ mặt tàn nhẫn của mình…

———————————————————

Và rồi một chuyện bất ngờ xảy ra ngay lúc chúng tôi bắt đầu nghĩ rằng cuộc nói chuyện ngày hôm nay đã xong.

Vào lúc đó một người thanh niên mặc một chiếc áo khoác trắng chạy xộc vào lều.

Cậu ta là một con người với một đôi mắt sắc sảo trông khoảng tầm gần 30 tuổi. Điểm đặc biệt của cậu ta chính là cái mái tóc bù xù trắng xóa đến tận chân tóc, mặc dù trông cậu ta còn rất trẻ.

“Tôi nghe nói rằng Hilde đang ở đây,” – giọng của người thanh niên the thé cất lên.

Carla và Owen liền thận trọng nắm lấy chuôi kiếm.

Người thanh niên chẳng buồn bận tâm đến điều đó. Rồi khi cậu ta nhìn thấy Hilde, cậu ta liền bước về phía cô ấy.

Hilde liền phắt dậy, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của người thanh niên. “Brad! Sao cậu dám đẩy hết toàn bộ mọi buổi giảng dạy lên đầu tôi hả!”

Tên của người thanh niên tóc trắng kia là Brad Joker. Cùng với Hilde, cậu ta chính là vị bác sĩ hiện đang hỗ trợ cho cuộc cách mạng y học của đất nước này.

Brad chẳng thèm bận tâm đến lời phàn nàn của Hilde, bất thình lình cậu ta nắm lấy tay của cô ấy.

“Chờ đã, cậu đang làm cái gì vậy?!” – Hilde hét lên. “Đó không phải là cách đúng đắn để cậu đối xử với một người phụ nữ.”

“Nếu cô muốn phàn nàn, thì tôi sẽ nghe nó sau,” – cậu ta ngắt lời. “Xin lỗi… Nhưng tôi cần cô giúp tôi một tay.”

Có vẻ như Hilde đã nhận ra điều gì đó trong ánh mắt đầy nghiêm trang của Brad, cô ấy hiện tại cũng làm một bộ mặt nghiêm trọng. “Có chuyện gì sao?”

Brad buông cánh tay của cô ấy ra, và lặng lẽ gật đầu. “Đúng vậy. Chúng ta có một trường hợp khẩn cấp.”

Brad Joker là một Bác sĩ Phản đồ.

Trên đại luc này nơi mà hầu hết những người làm y tế là những pháp sư chuyên về quang thuật (ma thuật hồi phục giúp kích thích khả năng hồi phục của cơ thể), cậu ta chính là người bác sĩ phẫu thuật duy nhất của đất nước này. Cậu ta chuyên về những ca chữa trị nghiêm trọng mà không phải phụ thuộc vào ma thuật, chỉ sử dụng phương pháp khám sức khỏe và phẫu thuật.

“Chẳng cần phải dựa vào thần thánh, con người vẫn có thể tự chữa trị cho nhau bằng chính sức mình.” – Đó là quan điểm cá nhân của Brad.

Trên đại lục này, con người có xu hướng cho rằng quang thuật chính là “phước lành của các vị thần”, đặc biệt là Giáo hội chính thống Lunaria, họ cho rằng đó là một thứ rất linh thiêng. Khiến cho cái quan điểm cá nhân của cậu ta trở thành một thứ rất nguy hiểm.

Brad đã lang thang khắp chiến trường trên rất nhiều quốc gia khác nhau. Cậu ta lưu giữ những cái xác của những binh lính vô danh đã tử trận, giải phẫu cơ thể họ ra để tìm hiểu về cấu trúc cơ thể của những chủng tộc khác nhau. Cậu ta hiện đang phát triển một chuyên ngành độc lập về điều trị phẫu thuật bằng cách sử dụng phương pháp gây mê và giải phẫu.

Cậu ta cũng đã tiếp cận với nguồn kiến thức của tộc tam nhãn mà không hề có bất cứ thành kiến nào và đã tiếp thu được những kiến thức đó. Cậu ta biết rất nhiều về sự tồn tại của vi sinh vật và hiệu quả của kháng sinh, và cậu ta đã áp dụng những kĩ thuật đó vào công việc của mình.

Tay nghề của cậu ta chắc hẳn phải sánh ngang với thần thánh (Mặc dù, đối với một người ghét thần thánh như Brad, điều này nghe cứ như là một lời châm biếm). Yếu tố quan trọng nhất trong những kĩ năng của cậu ta chính là cậu ta có thể chữa lành những khối u ác tính mà không thể chữa trị bằng quang thuật được, bằng cách cắt bỏ chúng.

“Ánh sáng không phải là thứ duy nhất có thể chữa lành con người. Bóng tối cũng có thể làm được.”

Khi nói ra những lời như thế, nghe có vẻ như cậu ta có một triệu chứng về hội chứng tuổi dậy thì vậy, nhưng tôi có thể thông cảm. Và tôi đã thỉnh cầu sự giúp đỡ của cậu ta, nhưng thuyết phục cậu ta thật chẳng dễ dàng chút nào.

Ý tôi là thế này…

“Tôi theo đuổi thứ sức mạnh này (phẫu thuật) để tôi có thể cứu lấy những người nghèo khó không có khả năng điều trị và những con người ở vùng hẻo lánh nơi không có những quang thuật sư. Tôi không có hứng thú với tiền bạc, quyền lực, hay những thứ tương tự thế.”

… là những gì mà cậu ta đã nói với tôi.

Còn về việc làm cách nào mà tôi có thể thuyết phục được cậu ta hợp tác, tôi đã nhử… erm, đàm phán với cậu ta… không phải dùng tiền, hay quyền lực, mà là bằng đồ vật.

Chính xác hơn là, để cho tất cả mọi người trong Vương quốc có thể tiếp cận dễ dàng với chăm sóc y tế, tôi đã tạo ra một hệ thống bảo hiểm y tế quốc gia giống như ở thế giới của tôi và hứa với cậu ta rằng sẽ nhờ người thợ rèn giỏi nhất trong vương quốc rèn cho cậu ta một con dao mổ, những cây kim khâu, và một bộ dụng cụ y tế đầy đủ. Sau đó, bằng cách sắp xếp cho cậu ta trở thành một cộng tác viên cho hệ thống, không phải một cận thần, cuối cùng cậu ta đã đồng ý hợp tác.

Tính cho đến thời điểm hiện tại, tôi đang để cậu ta làm việc với Hilde với mục đích hướng hệ thống y tế của đất nước phát triển.

Việc thu thập và giải phẫu xác chết của cậu ta đã khiến rất nhiều người cảm thấy khó chịu, thế nên cậu ta bị xem là một kẻ dị biệt trong giới y học. Phần khó nhất lúc chiêu mộ cậu ta chính là phải xóa bỏ những thành kiến chống lại cậu ta. Vì dù sao thì theo cái cách mà cậu ta hành động, tôi không thể nói rằng cậu ta đang tự vệ được.

Không còn lựa chọn nào khác, tôi đã để cậu ta khám cho một vị quan chức quan trọng có tầm ảnh hưởng trong đất nước này và đang phải chống chọi với một căn bệnh. Bằng cách cho cậu ta chữa trị thành công một căn bệnh mà ai cũng tin rằng không có thuốc chữa, tôi đã khiến cho vị quan chức đó phải thừa nhận tài năng của cậu ta.

Và một khi người dân biết được cách chữa trị như thế là hiệu quả, quan điểm của họ liền nhanh chóng thay đổi. Số lượng người thực tập muốn theo đuổi ngành phẫu thuật cũng bắt đầu tăng lên. Và trong trường hợp đó, bằng cách để cho người quan chức quan trọng được chữa trị dứt điểm kia nắm quyền điều hành, hiện tại chúng tôi đang huấn luyện ra những bác sĩ giải phẫu mới cho đất nước này.

Còn về phần tôi, tôi hiện tại cấp tốc chỉnh sửa lại bộ luật và vấn đề cấp giấy phép hành nghề để những tên bác sĩ phẫu thuật giả không có những kĩ năng cần thiết sẽ không xuất hiện. Ban đầu, tôi chỉ yêu cầu giấy phép khi làm một ca phẫu thuật. Nhưng về sau, tôi dự định sẽ bắt những ca chữa trị bằng quang thuật và tất cả những thứ liên quan đến dược lý cũng phải có giấy phép.

Được rồi, giờ thì quay lại với câu chuyện chính nào.

Khi Hilde nghe nói rằng đây là một trường hợp khẩn cấp, sắc mặt của cô ấy liền trở nên nghiêm túc cứ như có ai đó vừachuyển công tắc vậy. “Nói cho tôi biết tình trạng của bệnh nhân đi.”

Gương mặt của cô ấy giờ trông y hệt như một bác sĩ. Chuyên nghiệp thật đấy.

Brad liền giải thích tình trạng cho Hilde một cách ngắn gọn. “Là một người phụ nữ đang mang thai trong ngôi làng này. Cô ấy đã bị vỡ ối. Đứa bé có thể chào đời bất cứ lúc nào, nhưng tình trạng thai nhi hiện tại đang rất tồi tệ. Thai nhi đang nằm quay lưng và chắn cổ tử cung của người mẹ.”

“Thai ngôi ngang ư… Đó là trường hợp rất hiếm gặp và nguy hiểm…”

Tôi chẳng hiểu họ đang nói gì cả, nhưng theo như những gì tôi thu thập được, đó chắc hẳn là một ca sinh khó.

“Người nữ hộ sinh có vẻ như đã chịu thua rồi,” – Brad nói tiếp.

“Ừm, chẳng ngạc nhiên lắm,” – Hilde đáp. “Thai nhi sẽ bị mắc kẹt ở khung xương chậu. Bình thường thì, mẹ hoặc con… một trong 2 người họ sẽ phải hi sinh. Để cứu cả hai…”

“Đúng vậy… sinh mổ có lẽ là lựa chọn duy nhất ở đây.”

Sinh mổ… Oh, là phương pháp mổ lấy thai! Nhưng Hilde lại nhìn cậu ta với vẻ mặt nghi ngại.

“Cậu có thể làm được sao? Tôi nghe nói rằng tỉ lệ sống sót của người mẹ khi bị rạch tử cung chỉ vào khoảng 20% hoặc thấp hơn nữa đấy?”

“Có một lý do rất rõ ràng cho việc tại sao tỉ lệ sống sót lại thấp đến vậy.”

“Oh… Vậy đó là gì thế?”

“Chẳng ai trong chúng ta thực hiện đúng quy trình cả,” – Brad đáp, nghe có vẻ như đó là một điều hiển nhiên.

Khi cậu ta nói ra lời đó với vẻ đầy tự tin như vậy, Hilde bất chợt nhíu mày. “Cậu nói ra cái điều khó tin đó cứ như nó là một chuyện chẳng có gì làm ngạc nhiên vậy…”

“Đó là sự thật,” – cậu ta nói. “Chính xác hơn là, bởi vì họ không có kiến thức về bệnh truyền nhiễmcủa tộc tam nhãn và không có kĩ năng của tôi. Cách làm của họ chỉ là mổ bụng, lấy thai nhi ra, khâu vết thương lại, và chữa lành nó bằng quang thuật. Họ không hề có thuốc gây mê, thế nên người mẹ mang thai phải chịu đựng cơn đau khủng khiếp đó. Đồng thời kĩ năng mổ và khâu vết thương của họ cũng không phát triển mấy, thế nên dù họ có sử dụng quang thuật, vết thương cũng không khép lại theo đúng cách và bệnh nhân sẽ chết vì mất máu. Họ không có kháng sinh của tộc tam nhãn, nên người bệnh sẽ dễ dàng bị nhiễm trùng sau cuộc phẫu thuật. Đó là lý do vì sao tỉ lệ sống sót rất thấp.”

Rồi Brad chìa tay về phía Hilde.

“Cho dù tôi có đích thân làm việc này, tôi cũng chỉ có thể đẩy tỉ lệ thành công lên 80%. Tuy nhiên, nếu cô giúp tôi xử lý những công việc khử trùng, chúng ta có thể đẩy tỉ lệ đó lên gần 100%.”

“Geez, thế thì tôi đâu còn lựa chọn nào khác chứ?” – Hilde đưa tay lên gãi đằng sau gáy rồi nắm lấy bàn tay của Brad. “Trước mặt một bác sĩ, tất cả bệnh nhân đều bình đẳng. Đó là lý do vì sao bác sĩ không được phép kén chọn bệnh nhân.”

“Cảm ơn cô. Có cô ở cạnh bên còn hơn cả việc có 100 người khác nữa đấy.”

Hilde quay lại nhìn tất cả chúng tôi. “Bệ Hạ! Trưởng làng tị nạn! Như các người đã nghe rồi đấy. Xin thứ lỗi, nhưng tôi cần phải mượn một số người tùy tùng của các vị một lát.”

“Tất nhiên rồi, cứ tự nhiên,” – tôi đáp.

“Đương nhiên rồi,” – Jirukoma đáp. “Chúng tôi là một gia đình. Nhiệm vụ của trưởng làng là phải bảo vệ gia đình của mình.”

“Xin đa tạ,” – Hilde nói. “Này cô gái long tộc kia!”

“T-tôi á?!” – Carla giật mình khi cô ấy bị gọi như thế.

“Hãy nhanh chóng đến phòng nghiên cứu y tế trong thủ đô. Mang cho chúng tôi bộ dụng cụ và những vật tư y tế. Cô chỉ cần hỏi cái túi đen của tôi nằm ở đâu là những nghiên cứu sinh trong đó sẽ biết cô cần gì. Hoặc cô chỉ cần mang cả cái túi đến đây là được.”

“R-rõ ạ!” – Carla vội vã rời khỏi lều.

Tiếp theo, Hilde nhìn về phía Jirukoma. “Trưởng làng tị nạn, tôi muốn mượn chiếc lều này một lúc. Sẽ tốt nhất nếu chuyển cô ấy đến một nơi sạch sẽ nhất có thể.”

“Tôi không phiền đâu,” – Jirukoma. “Xin cứ tự nhiên.”

“Với lại, chúng tôi cần tìm một người có cùng nhóm máu với người mẹ, thế nên mau triệu tập những người dân tị nạn lại.”

“Rõ rồi.”

Tôi biết điều này có hơi muộn nhưng, thế giới này cũng có các loại nhóm máu A, B, và O (mặc dù cách đặt tên của chúng có hơi khác).Và kì lạ thay, cho dù chủng tộc khác nhau, nhưng chỉ cần cùng nhóm máu, họ hầu như vẫn có thể truyền máu cho nhau. Tôi nói là “hầu như” bởi vì có một số nhóm máu không thể truyền cho nhau được cho dù vẫn cùng nhóm máu. Có lẽ là bởi vì thế này cũng có kiểu nhóm máu Rh dương và âm.

“Tiếp đến là, Người biết một ít kiến thức về khử trùng đúng không, Bệ Hạ?” – Hilde hỏi tôi. “Hãy giải thích cho trưởng làng và những người ở đây biết. Tôi cần môi trường làm việc của chúng tôi phải sạch sẽ nhất có thể. Với lại, đun thật nhiều nước cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ cần phải khử trùng dụng cụ y tế của mình.”

“Hiểu rồi! Liscia, Owen, làm thôi nào!”

“Okay!” – Liscia đáp.

“Rõ” – Owen cũng đồng ý.

“Đ-để tôi giúp nữa!” – Komain nhảy vào.

Và thế là Komain đi theo chúng tôi, sắp đặt mọi thứ trong lều và giúp chúng tôi nấu thật nhiều nước sôi. Với việc chẳng có khoảng cách gì về địa vị giữa chúng tôi, từng người trong số chúng tôi đều có gắng làm việc hết sức có thể.

Ai có thể làm được việc gì đều ra sức giúp đỡ.

Trong một thoáng, tôi có cảm giác như chúng tôi đang là hiện thân cho cái tình trạng hiện tại của đất nước này vậy.

———————————————————

Khi công cuộc chuẩn bị đã hoàn tất, chẳng còn việc gì cho chúng tôi làm nữa.

Bên trong lều, Brad và Hilde lúc này chắc hẳn đang thực hiện ca phẫu thuật. Tôi có thể nghe tiếng thở nặng nhọc của người mẹ bên trong. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là chờ đợi bên ngoài lều cho đến khi cuộc phẫu thuật kết thúc.

Liscia đang đứng canh cửa, chợt cất tiếng với một giọng đầy lo lắng. “Em nghe nói là họ sẽ mổ bụng người mẹ ra. Liệu cô ấy sẽ ổn chứ?”

“Đó là tất cả những gì mà em được nghe à, nghe có vẻ như là một kiểu vụ án kì lạ đúng không?” – tôi nói. “Không có gì phải lo lắng cả đâu.”

Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên đầu Liscia.

“Mổ lấy thai là một phương pháp thường được sử dụng cho những ca sinh khó trong thế giới trước đây của anh, và tỉ lệ người mẹ tử vong khi hạ sinh rất thấp. Hầu như mọi người đều không nghĩ đến việc người mẹ mang thai sẽ tử vong khi sinh. Mà họ chỉ mong rằng đứa trẻ được sinh ra khỏe mạnh.”

“Thế giới đó của anh đúng là thật tuyệt vời đấy, Souma.”

“Ừm, có thể nói là vậy,” – tôi nói. “Mà… hai người đó có thể làm được tương tự như vậy với ngành y học của đất nước chúng ta cũng rất tuyệt đấy. Hmm, thế giới của anh không có quang thuật, thế nên cũng khó mà so sánh.” – Rồi tôi quay sang Jirukoma, người đang đứng cạnh tôi. “Thế chồng của người mẹ hiện đang ở đâu?”

“Chúng thần không biết liệu anh ta còn sống hay đã chết,” – anh ta đáp. “Người biết đấy, có vẻ như họ đã bị chia cắt trong lúc chạy nạn từ phương Bắc. Dù vậy, cô ấy vẫn quyết định hạ sinh đứa bé trong bụng và họ sẽ cùng nhau chờ đợi người cha trở về.”

“Ta hiểu rồi…”

Ý chí của người mẹ thật mạnh mẽ. Có vẻ như điều đó luôn đúng cho dù ở bất cứ thế giới nào đi nữa.

“Đối với những người dân của ngôi làng này, đứa trẻ trong bụng cô ấy chính là hi vọng,” – Jirukoma nói. “Đứa bé mang lại cho chúng thần một ý nghĩa rằng chúng thần không chỉ có mất mát. Đó là lý do vì sao tất cả mọi người trong làng đều quyết định sẽ cùng nhau nuôi lớn đứa trẻ, bằng tất cả tình yêu thương.”

“Ta hiểu rồi… Jirukoma này.” – tôi quay lại đối mặt với anh ta. “Ta biết Brad và Hilde đáng tin thế nào. Đó là lý do vì sao ta tự tin rằng cả người mẹ và đứa trẻ đều sẽ sống sót. Thế nên, ta muốn nói với ngươi một điều.”

“… Là chuyện gì ạ?”

“Đứa trẻ đó sẽ được chào đời bên trong đất nước này. Đất nước này sẽ là nơi nó lớn lên. Nó sẽ sẽ gọi đất nước này là quê hương của mình, mà không cần phải biết đến vùng đất quê hương của cha nó.”

Jirukoma im lặng nhắm đôi mắt lại. Có vẻ như anh ta đã hiểu ý mà tôi muốn nói.

“Ngươi bảo rằng tất cả các ngươi sẽ nuôi lớn đứa bé bằng tình yêu của cả ngôi làng, đúng không? Vậy thì, chẳng cần phải bắt một đứa trẻ chưa biết gì phải thừa hưởng nỗi đau khổ của các ngươi cả. Các ngươi có thể tự quyết định đi hay ở lại đất nước này. Tuy nhiên, sẽ là hơi quá đáng nếu bắt một đứa trẻ có quyền được lựa chọn đất nước này là quê hương của mình, sống một cuộc sống của những người mất quê hương.”

“Người không cần phải nói nữa đâu,” – anh ta lặng lẽ cất tiếng.

“Anh…”

Jirukoma đặt bàn tay rắn rỏi của mình lên đôi vai đầy lo lắng của Komain. “Thần đã quyết định. Thần sẽ giao lại chức vị trưởng làng cho Komain.”

“A-anh đang nói gì vậy?!” – cô ấy hét lên.

“Ngươi đang suy tính điều gì đấy?” – tôi hỏi.

Jirukoma thở dài buồn bã. “Nói thẳng ra thì, người dân của ngôi làng này đã quá mệt mỏi với cuộc sống tha hương rồi. Nếu những con người kiệt quệ này có thể gọi nơi này là nhà, thần cho rằng đó là một điều tuyệt vời. Tuy nhiên, vẫn có một số ít những con người cứng đầu vẫn không chịu từ bỏ việc quay trở về quê hương và vẫn đang cố gắng lái mọi người đi theo họ.” – Jirukoma quay người về phương Bắc. “Thần dự định sẽ mang số ít những con người cứng đầu đó và cố gắng quay trở lại phương bắc. Chúng thần sẽ đến những quốc gia đang tuyển những người lính tình nguyện và chờ đợi ở tiền tuyến, chờ đợi thời cơ đến để lấy lại mảnh đất quê hương của mình.”

“Anh, không được!” – Komain nắm chặt lấy bàn tay của anh trai mình, cứ như là cô ấy đang cố níu giữ lấy anh ta. “Ngôi làng này cần anh! Em mới là người cho rằng lời đề nghị của Bệ Hạ là độc ác! Em sẽ đảm nhiệm công việc đó!”

“Em không thể đâu,” – anh ta nói. “Lý do mà em cho rằng lời đề nghị của Bệ Hạ là độc ác là bởi vì em lo lắng cho người dân của ngôi làng này, đúng không? Với một tấm lòng nhân hậu như vậy, em sẽ trở thành người tổ chức cộng đồng giỏi hơn anh đấy.”

“Nhưng chẳng phải chính anh đã nói rằng lời đề nghị của Đức vua rất tuyệt vời sao?!” – cô ấy bật khóc.

“Đơn giản là anh giỏi giấu cảm xúc thật sự của mình hơn em.” – Jirukoma nhẹ nhàng gạt bàn tay của Komain xuống. “Trong thâm tâm của anh, anh không thể nào từ bỏ mong ước trở về quê nhà của mình được. Tuy nhiên, anh đã được tin tưởng giao cho trọng trách trưởng làng. Chính vì thế mà anh đành phải che đậy cái cảm xúc đó lại, và thắt chặt nó vào sâu thẳm trong lồng ngực của mình.”

“Anh…”

“Tuy vậy, giờ thì không cần phải làm thế nữa. Bệ Hạ đã nói rằng nếu người dân của ngôi làng yêu mến đất nước này, đất nước này sẽ sẵn sàng đón nhận họ. Người dân cuối cùng cũng đã đến được một vùng đất nơi họ có thể tìm thấy được sự bình yên. Điều đó có nghĩa là nhiệm vụ của anh đã hoàn thành. Giờ anh đã có thể giải phóng thứ cảm xúc ấy của mình rồi.”

Komain vẫn đang bật khóc, nhưng Jirukoma thì đang mỉm cười với cô ấy. Biểu cảm của anh ta xem chừng như là đã quyết ý.

Geez…

Tôi lên tiếng, “Đừng có làm em gái của ngươi khóc chứ, cái tên đần độn này.”

“Thần không dám phản đối lời của Người ạ,” – anh ta đáp. “Xin Người hãy chăm sóc cho Komain và những người khác giúp thần.”

“Ta chỉ giỏi trong mấy công việc bàn giấy thôi,” – tôi thừa nhận. “Nếu nói về thứ thật sự có thể bảo vệ họ, thì đó chính là cả quốc gia này.”

“Vậy, xin Người hãy gắng sức để đất nước này có thể trụ vững trước thử thách của thời gian. Để không ai có thể hủy diệt được nó.”

“… Ta sẽ cố.”

Và ngay khoảnh khắc đó, tôi nghe được một tiếng khóc yếu ớt vọng ra từ bên trong ngôi lều.

Trong khi tôi vẫn còn đang thắc mắc đó là gì, Liscia liền thốt lên, “Sinh rồi!”

“Ohh! Vậy ra đó là tiếng khóc chào đời của đứa bé ư?” – tôi hỏi lại. “Anh cứ nghĩ là nó phải lớn và chói tai hơn chứ…”

Vậy là đứa bé đã chào đời an toàn. Giờ thì, chỉ còn người mẹ thôi…

Chúng tôi hướng về phía cửa lều, cầu mong cho sự bình an của người mẹ.

◇ ◇ ◇

—Một tuần sau.

“Dễ thương quaaaá,” – Liscia thốt lên.

“M-mềm mại thật…” – Komain thì thầm.

“Liscia, c-cho tớ bế nữa nào,” – giọng Carla nài nỉ.

Một đứa bé với đôi tai nhọn đang nằm ngủ trong vòng tay của người mẹ, và Liscia, Komain, cùng Carla đang thay phiên nhau bế đứa trẻ.

Một tuần trước đó, chúng tôi nghe tin từ Brad rằng cuộc phẫu thuật đã thành công, nhưng chúng tôi vẫn chưa được gặp họ kể từ cái ngày đó. Đó là lý do vì sao chúng tôi rất muốn biết họ hiện đang thế nào, và vì thế nhóm người lúc trước của chúng tôi đã đến thăm họ.

Tôi cũng muốn được trông thấy mặt đứa bé, nhưng ba người họ cứ giữ lấy đứa bé không rời nên tôi chẳng thể tìm được khoảng trống nào để nhảy vào. Đ-đây có có phải là thiên chức của người mẹ như mọi người vẫn hay gọi không nhỉ?

“Ahh, mấy người bạn của ta có vẻ như đang ồn ào quá nhỉ,” – tôi nói. “Xin thứ lỗi về việc đó nhé.”

Người mẹ của đứa trẻ mỉm cười. “Không ạ, thần thật may mắn khi được vị công chúa và tất cả mọi người yêu mến đứa trẻ của thần thế này.”

Người mẹ là một người phụ nữ Miêu tộc, trông cô ấy rất điềm tĩnh. Tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm khi thấy cô ấy khỏe mạnh thế này. Quá trình hồi phục của cô ấy có vẻ như cũng không có tiến triển gì xấu.

Người mẹ nắm lấy tay của đứa trẻ và nói. “Chúng thần thực sự rất may mắn khi được đích thân Bệ Hạ quan tâm đến chúng thần.”

Chúng tôi đã tiết lộ thân phận của mình cho người mẹ. Gương mặt của tôi và Liscia đều rất nổi tiếng, thế nên sẽ khá là vô ích nếu cứ cố gắng giữ bí mật. Ban đầu, người mẹ rất sợ hãi (giống như lúc lão gia Koumon tháo phong ấn ra vậy), nhưng giờ đây, cô ấy đã gần như quen với chúng tôi rồi.

“Ừm, ta đồng ý với cô là đứa bé thật may mắn,” – tôi nói. “Cực kỳ may mắn là đằng khác. Vì dù sao thì, đứa bé được chào đời không chỉ nhờ một, mà nhờ đến hai người bác sĩ giỏi nhất trong đất nước này làm việc cùng nhau mà.”

“Đúng là thế,” – cô ấy đáp. “Họ không chỉ cứu được đứa bé, họ còn cứu được cả thần nữa.”

Đúng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Hilde ghé thăm ngôi làng vào cái ngày đó. Bởi vì cô ấy đã tình cờ gặp chúng tôi ở khu ổ chuột, bởi vì chúng tôi có công việc phải giải quyết trong ngôi làng tị nạn, và bởi vì Hilde quyết định đi theo chúng tôi, cả hai vị bác sĩ vĩ đại này mới hiện diện ở đó. Nếu đứa trẻ chào đời sớm hơn hay muộn hơn chỉ 1 ngày thôi, cô ấy đã không thể được 2 vị bác sĩ vĩ đại này chăm sóc. Khi tôi nghĩ đến điều đó tôi chợt nhận ra rằng, chính đứa trẻ này đã cứu tính mạng của mẹ mình.

“Cứ như là vị thần fuku vậy…” – tôi lẩm bẩm.

“Fukuư…?” – cô ấy hỏi lại tôi.

“Đó là một từ xuất phát từ thế giới của ta. Nó mang ý nghĩa là may mắn, hoặc hạnh phúc.”

“Hạnh phúc… Um, thưa Bệ Hạ?” – Người mẹ vội vàng bước lại gần tôi. “Cái tên Fuku đó. Người có thể đặt cho đứa bé này được không ạ?”

“Hm? Cô không thỉnh cầu được tự mình đặt cho đứa bé cái tên này, mà thỉnh cầu ta đặt cái tên này cho đứa bé sao?” – tôi hỏi.

Liscia hiện đang bế đứa trẻ. Liền giải thích với tôi, “Ở thế giới này, khi một người có địa vị cao hay một vĩ nhân đặt cho anh một cái tên, tức là anh sẽ nhận được một ít sức mạnh đến từ người đó. Thế nên, anh hãy đặt cho đứa bé cái tên đó nhé.”

Ừm, tôi nghĩ là chẳng có vấn đề gì cả.

“Là con trai đúng không?”

“Vâng.”

“Được, vậy tên của nhóc sẽ là Fuku.Hãy mau ăn chóng lớn nhé.”

Khi tôi nói ra những lời đó và xoa đầu đứa trẻ, tiểu Fuku liền phát ra một tiếng kêu nhỏ nghe rất đáng yêu và gật đầu trong khi đôi mắt vẫn còn đang nhắm nghiền.

Cậu nhóc trả lời mình ngay lúc đang ngủ luôn sao?! Đứa trẻ này… có khả năng sẽ là một nhân vật tầm cỡ trong tương lai đây. Trong khi tôi vẫn đang suy nghĩ về việc đó, Liscia nhìn chằm chặp vào gương mặt của tôi.

“G-gì thế?” – tôi hỏi.

“Những đứa trẻ lúc nào cũng tuyệt vời đúng không, nhưng có một em bé cho riêng mình chẳng phải sẽ đáng yêu hơn sao?” – cô ấy cất tiếng hỏi và bắn một ánh mắt đầy ẩn ý về phía tôi.

Ahh, vâng… Chắc lại là chuyện đó nữa rồi. Hakuya và Marx đã bảo cô ấy rằng chúng tôi cần phải hạ sinh một hoàng tử. Giờ đây đất nước đã ổn định rồi, họ chắc hẳn sẽ gây áp lực lên cô ấy càng lúc càng nhiều hơn.

“À ừ… Em nói phải,” – tôi bẽn lẽn nó. “Chúng ta đã phát triển được phương pháp mổ lấy thai, và càng ngày chúng ta càng có thêm nhiều sản phụ và những chuyên gia về phụ khoa. Hiện giờ chúng ta đã có thể sinh con bất cứ lúc mà không phải lo lắng về vấn đề an toàn nữa.”

Đôi mắt của Liscia liền mở to. “Em cứ nghĩ là anh sẽ lại đánh trống lảng nữa chứ.”

“À khoan, nghe anh nói đã… Được rồi, đúng là, về phần đó thì,” – tôi nói. “Em biết đấy, mặc dù anh đã sẵn sàng để làm một người chồng, nhưng anh vẫn chưa sẵn sàng làm một người cha đâu.”

“Oh! V-vâng… Em hiểu rồi…”

Tôi rất muốn làm những việc tình tứ với Liscia và các vị hôn thê của tôi. Nhưng, để tăng số lượng thành viên Hoàng tộc đã bị giảm mạnh trong cuộc tranh chấp ngai vàng sau khi vị vua trước đó băng hà, vị quan thị trung, Marx đã đề nghị rằng, “Thần sẽ không để cho Người thực hiện kế hoạch hóa gia đình chừng nào Người còn chưa hạ sinh ít nhất một đứa trẻ!” – Bạn thấy đấy, tôi cần phải thận trọng trong chuyện này.

“Mà, bỏ chuyện đó qua một bên đi, tỉ lệ tử vong trong lúc sinh nở ở thế giới này cũng đang khiến anh phải bận tâm đấy,” – tôi nói.

Khi tôi nhìn vào báo cáo dân số của đất nước này, tôi đã rất kinh ngạc trước tỉ lệ tử vong cực cao của những đứa trẻ mới chào đời và phụ nữ mang thai. Tại Nhật Bản hiện đại, trong khi chúng tôi lo lắng về việc đứa trẻ được sinh ra có an toàn hay không, chúng tôi hiếm khi nào nghĩ về rủi ro tử vong của người mẹ trong lúc hạ sinh. Tuy nhiên, có vẻ như, tại đất nước này, thỉnh thoảng có những trường hợp phụ nữ mang thai đã tử vong. Tỉ lệ là trong 1000 người phụ nữ mang thai, sẽ có một số ít tử vong. Tại một đất nước thiếu đi những nghiên cứu về sản phụ và phụ khoa như đất nước này, những phụ nữ mang thai thực sự phải vật lộn với sinh mạng của họ để hạ sinh thành công một đứa bé.

Vì là một vị vua, tôi bị bắt phải hạ sinh thật nhiều đứa trẻ với nhiều phụ nữ. Nếu Liscia, Aisha, Juna, hay Roroa hạ sinh một đứa bé, mà vì điều đó một trong số họ phải chết trong lúc hạ sinh thì… tôi sẽ không thể chịu đựng nổi đâu.

“Để chắc chắn rằng cái trường hợp đó sẽ không bao giờ xảy ra, để giữ cho cái rủi ro mất đi người thân trong gia đình xuống mức thấp nhất có thể, anh cần phải đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu hệ thống y tế,” – tôi nói. “Cho dù có phải lạm dụng quyền lực vì nó đi chăng nữa.”

“Đó là một điều tốt mà đúng không? Cuối cùng thì kết quả lúc nào cũng là anh sẽ giúp đỡ tất cả mọi người.” – Liscia khoác tay của cô ấy vào tay tôi và nói. “S-Souma này. Nếu lúc này việc hạ sinh em bé đã dễ dàng hơn rồi, vậy thì anh có muốn thử làm việc đó tối nay không?”

Khi Liscia nói ra điều đó với một thái độ bẽn lẽn như vậy, phải thừa nhận là tôi rất muốn làm tới luôn đấy. Nhưng, như tôi đã nói trước đó, tôi vẫn chưa sẵn sàng làm cha lúc này, thế nên tôi đành phải quay mặt ra hướng khác.

“Oh! Um… em có thể đợi thêm một lúc nữa được không?”

“Geez! Cuối cùng thì anh vẫn cứ đánh trống lảng thôi!” – Liscia lớn giọng.

Giọng của Liscia khiến cho Fuku bị giật mình, và rồi cậu nhóc bắt đầu phản ứng. “Wah… Wahhhhhh!”

Thế là chúng tôi phải đưa cậu nhóc lại cho người mẹ và cố gắng làm trò cho cậu bé vui lên. Owen cũng tham gia và cố thử làm một bộ mặt hài hước, nhưng gương mặt của ông ta lại khiến Fuku giật mình một lần nữa, và thế là cậu nhóc lại khóc toáng lên.

Một ngày nào đó, chúng ta sẽ lại có cái cảnh tượng ồn ào giống y thế này trong thủ đô Hoàng gia cho mà xem.

Giữa cái cảnh tượng ồn ào nhưng tràn ngập hạnh phúc này, ý nghĩ đó chợt thoáng qua đầu tôi.