NHẤT NIÊN BIẾN (CHUYỆN MỘT NĂM) (THƯỢNG)
Bước vào Tảo Hà Hiên, tâm trạng lo âu vướng mắc của Chu Đường chỉ trong phút chốc đã lặng xuống.
Thời gian thấm thoắt, giờ y mới ý thức được, đã ba năm mình chưa đến nơi này.
Chỉ là một gian nhà mà thôi, vốn y vẫn không cảm thấy có gì đáng quyến luyến, nhưng tới ngày hôm nay, y lại bất chợt nhận ra nơi này để lại nhiều hoài niệm lắm.
Gian nhà đầy bụi bặm, dáng vẻ vẫn như xưa, một đống chổi hỏng xếp trong góc, vách tường có vài vệt mốc, cái tủ ngày trước còn dùng tốt, giờ đã gãy mất một chân, nghiêng nghiêng đứng đó.
Một cánh cửa sổ mở ra…
Đó là nơi duy nhất không dính bụi.
Chu Đường đi tới, trên bậu cửa sổ, y nhìn thấy thứ Lạc Bình để lại cho mình.
Một chén sứ có nước trà bên trong, trà đã nguội lạnh, nhưng hương thơm vẫn còn thoang thoảng. Không chỉ là hương của Bích Loa Xuân (*), mà còn kèm theo một mùi thơm ngát xa xăm rất quen thuộc.
(*Bích Loa Xuân là một loại trà xanh)
Chu Đường nhớ rõ, tiểu phu tử cũng đã từng ngâm cho y một chén trà như vậy.
Bởi vì khi đó y một mạch chạy vội từ trong cung đến, vào tới Tảo Hà Hiên thì miệng khô lưỡi khô, bưng chén lên uống “sột” một ngụm là hết sạch, tiểu phu tử thấy vậy thì đau lòng vô cùng, đau lòng vì thương tiếc chén trà của hắn, “Ta không nên để lại cho ngươi mới phải, thật là phí của trời.”
Y chẳng hiểu gì cả, hỏi làm sao vậy, tiểu phu tử nói, trà này là do hắn gói trong một túi vải xô, chờ tới hoàng hôn khi bông sen sắp khép nụ thì đặt vào nhuỵ hoa, đợi đến sớm mai sen nở lại lấy ra, sau đó mang túi trà đã ngấm hương thơm ngâm vào nước nóng mà thành. Chén trà vừa phức tạp, vừa lịch sự tao nhã như thế, lại bị y coi như nước lã mà tu ừng ực, hắn có thể nào không đau lòng sao.
Về sau tiểu phu tử cũng không buồn rỗi hơi đi pha trà cho y nữa.
Chu Đường bưng chén lên nhấp một ngụm, hương vị đăng đắng xen lẫn ngọt ngào, bất tri bất giác tâm y như tĩnh lại, khoé môi cong lên thành một nụ cười.
Tiểu phu tử dùng một buổi hoàng hôn và một buổi sáng sớm để chuẩn bị một chén trà cho y, điều này chứng minh rằng hắn chưa từng muốn giã biệt, chứng minh rằng cho dù có rời đi, hắn vẫn sẽ luôn đặt y ở trong lòng.
Dưới chén trà có một phong thư.
Chu Đường ôm tâm tình khẩn trương mà thận trọng, mở thư ra, y nghĩ chắc là tiểu phu tử sẽ cho y những lời giải thích tường tận, có lẽ sẽ rất dài, có lẽ đa phần là về không muốn xa y…
Ấy vậy mà trên thực tế, trên trang giấy trắng chỉ có vài câu ít ỏi:
Tiểu Đường thân khải, (Thân gửi Tiểu Đường)
Hoàng mệnh nan vi, Lạc Bình lĩnh mệnh bãi quan mười năm.
Kẻ hèn thân mang tội, kinh thành không nơi cư trú, chẳng bằng quy ẩn, quân(ngài) không cần lo lắng hoài mong.
Hiện giờ triều đình phong vân biến huyễn (biến động khó lường), vọng (mong)quân cẩn thận, cẩn thận gấp bội.
Tất tái tương kiến (rồi sẽ gặp lại), tĩnh hậu giai kỳ (xin chờ ngày đó).
Mộ Quyền kính thư.
Thấy bức thư ngắn ngủn, Chu Đường giận đến suýt chút nữa xé cho bằng sạch.
Nhưng rồi y nhìn đến câu kia “Tất tái tương kiến, tĩnh hậu giai kỳ”, rốt cục vẫn không thể nào hạ thủ được.
Giai kỳ… Khi nào mới là giai kỳ?
Thật sự muốn y chờ mười năm sao?
Cái người vẫn bầu bạn với y, chèo chống vì y, cứ như vậy mà biến mất? Không nói cho y rằng sẽ đến nơi đâu, chỉ để lại một lời hứa hẹn không biết khi nào mới được thực hiện, cứ như vậy mà rời khỏi cuộc đời y?
Điều này đối với y, dù thế nào cũng không thể tiếp nhận được.
Uống một hơi cạn sạch chén trà, cuối cùng chỉ còn lại chua xót dai dẳng.
Tán liễu lướt nhẹ qua cửa sổ, ánh mắt Chu Đường quanh quẩn với màu xanh non ấy, cuối cùng dừng lại tại một nơi.
Lần đó y không cẩn thận làm hỏng một cuốn tàng thư, Lạc Bình mắng y, phạt y chép sách.
Trong lòng ấm ức, y bèn khắc một bức họa trên khung cửa sổ, vẽ lại hình dáng tiểu phu tử lấy sách muốn đập đầu y, một bên còn đánh dấu ba chữ xiêu xiêu vẹo vẹo —-thối phu tử.
Hiện giờ, tại nơi đó đã xuất hiện thêm một thứ.
Bên cạnh thối phu tử, có một hình người nhỏ đang ôm đầu chạy trốn, mặt mũi còn nhăn nhở cười. Sát gần hình người nhỏ là ba chữ thanh thanh —- tử Tiểu Đường.
“Phì!” Chu Đường không nhịn được cười.
Y không ngờ tiểu phu tử luôn luôn chững chạc lại cũng có lúc trẻ con như vậy.
Vết tích còn rất mới, rõ ràng chỉ vừa khắc không lâu.
Vuốt ve từng nét khắc thô ráp, Chu Đường đặt trán mình lên ‘Thối phu tử’, “Tiểu phu tử, ta không muốn làm ngươi thất vọng, nhưng ta sợ… không có ngươi, ta chẳng còn kiên cường được nữa.”
Y biết mình không thể cứ mãi dựa dẫm vào tiểu phu tử, ba năm qua, y đã chậm rãi học cách độc lập xử lý một ít phiền hà. Nhưng y chưa bao giờ nghĩ tới, có một ngày tiểu phu tử thật sự không còn ở bên y.
Người nọ đã sinh trưởng, mọc chồi và đâm rễ trong lòng y, không phải nói nhổ là có thể nhổ được.
Chu Đường quét dọn Tảo Hà Hiên sạch sẽ, mang bàn ghế ngày trước trở về. Mặc dù bây giờ chỉ còn một mình y, nhưng y vẫn dọn về hai cái ghế.
Mỗi sáng sớm y sẽ đến đó đọc sách và tập viết, có khi vô thức ngẩng đầu lên nhìn chiếc ghế đối diện, cảm thấy như tiểu phu tử vẫn đang ngồi đó, hoặc là đọc sách, hoặc là mơ màng ngủ quên.
Cảm giác ấy thực kỳ lạ.
Bởi vì từ ngày Lạc Bình nhậm chức tại Đại Lý Tự, bọn họ có rất ít cơ hội được ngồi đối diện như thế.
Chẳng biết tại sao, sau khi người nọ đi rồi, ký ức lưu lại càng ngày càng rõ, càng ngày càng khiến cho y muốn ngừng mà ngừng không được. Vì thế y tựa như bị nghiện, một ngày không tới ngồi ở Tảo Hà Hiên, cả người liền sẽ không lúc nào thoải mái.
Mở ra kiệt tác mới nhất của Hứa công tử, [Trường lưu ký] (lưu luyến dài lâu), Chu Đường chuyên chú đọc.
Đúng vậy, hiện giờ y lại bắt đầu xem tiểu thuyết của Hứa công tử.
Không có tiểu phu tử quản giáo y nữa, tại sao y không được xem?
Nhưng mà kết cục của cuốn sách này không được mỹ mãn, gói gọn chỉ bằng một câu:
Hận biệt ly, ly nhân vị quy, liệu tương tư, tư dĩ thành hôi. (Hận biệt ly, người đi chưa về, lửa cháy tương tư, tâm đã thành tro bụi)
Chu Đường ngẩn người, mang sách ra xé vụn.
Thu qua đông tới, trời tối rất mau, gió phương Bắc đổ về càng thêm lạnh, thỉnh thoảng còn có tuyết rơi.
Phương Tấn ngẩng đầu nhìn trời, lòng thầm tính toán, không khỏi có chút ảo não, xem ra hôm nay không vào được Mạt thành rồi, thay vì nằm dưới chân tường hứng gió bấc, chẳng thà tạm thời tìm một chỗ nghỉ ngơi.
Nhưng mà ở cái nơi ngoại ô hẻo lánh thế này, không biết có khách * (nhà trọ) nào không?
Khách * không tìm được, nhưng rất nhanh, y lại nhìn thấy một tửu quán (quán rượu) cạnh đường cái cách đó không xa.
Đẩy cửa bước vào, bên trong cực kỳ náo nhiệt.
Khách ở đây đều giống như y, cũng là vội vào thành nhưng bị gió tuyết cầm chân, tốp năm tốp ba túm tụm uống rượu nói khoác, khiến cho tửu quán nho nhỏ ấm áp vô cùng.
Phương Tấn đánh giá chung quanh một chút, nhếch miệng cười.
Lão bản nơi này chắc chắn có bản lĩnh, tửu quán mở bên đường cái, lai khách bốn phương cùng nhau tụ hội, không có phòng trang nhã, không có phòng hảo hạng, quan sai ở một bên, hắc thương (buôn lậu) ở một bên, người giang hồ ở một bên, dân chúng ở một bên, bên nào biết bên đó, không lẫn lộn, không rầy rà, thật đúng là thuận hoà vui vẻ.
Một tiểu nhị chạy lại tiếp đón y, thấy y lẻ loi một mình, liền lanh lợi dẫn y đến góc có chưởng quầy, xung quanh đều là dân chúng bình thường, có hai thư sinh không uống được rượu ngủ gục một bên, đúng là nơi tuyệt đối không sinh chuyện.
Y nói tạ ơn với tiểu nhị, gọi một bát mỳ thịt bò và vài món nhắm, thêm một chén rượu.
Có mại xướng nữ (cô gái hát rong) ngồi một bên thấy y khôi ngô tuấn lãng, thỉnh thoảng lại đảo mắt ngượng ngùng nhìn y, y chỉ vờ như không thấy, thản nhiên im lặng ăn uống.
Nơi này tuy là góc, nhưng tầm nhìn vô cùng tốt, y có thể nhìn thấy hầu hết đại sảnh, đang lúc Phương Tấn say sưa xem hai gã quan sai cụng rượu, một gian thương gõ bàn tính lạch cạch, ba đứa con nít giành nhau miếng thịt bò, cánh cửa tửu quán lại bị đẩy ra.
Người mới đến chỉ mặc áo bông màu trắng rất giản dị và mỏng manh, khuôn mặt bị lạnh hơi hồng lên, nhưng hắn không hề run rẩy. Hắn gấp dù, phủi phủi tuyết đọng trên vai, nhìn lướt qua tửu quán, thấy không còn chỗ ngồi, bèn đi tới cạnh chưởng quầy.
Phương Tấn thấy có chút kỳ quái, tiểu nhị biết người nọ bước đến, nhưng không đi ra tiếp đón mà lại vội vã chạy vào hậu đường.
Chỉ chốc lát sau, một vị lão phụ nhân từ hậu đường bước ra, đưa hộp cơm trong tay cho người nọ, người nọ nhận lấy, nói vài câu gì đó với lão phụ nhân, chưởng quầy và tiểu nhị, ba người kia vâng dạ, sau đó người nọ định rời đi.
Lúc này Phương Tấn đã hiểu, người nọ không phải khách, mà là lão bản của tửu quán này.
Y nhất thời hứng khởi, muốn làm quen với vị lão bản đó, bèn đứng dậy đi tới cạnh hắn, cúi chào nói, “Tại hạ Phương Tấn, cũng dừng chân nghỉ ngơi tại đây, nếu huynh đài không ngại, cùng ngồi uống rượu với tại hạ được không?”
Người nọ nghe vậy thì quay đầu nhìn y, trên mặt hiện ra vẻ kinh ngạc cực độ, hắn che giấu rất nhanh, nhưng vẫn bị Phương Tấn phát hiện được, “Sao vậy, huynh đài biết ta sao?”
Người nọ lắc lắc đầu, sắc mặt hơi tái.
Lão phụ nhân xen vào nói, “Khách quan, ngài hiểu lầm rồi, vị này không phải khách, mà là lão bản của chúng ta.”
Phương Tấn thầm bảo, ta đoán được hắn là lão bản nên mới tiếp cận chứ, ngoài mặt lại ra vẻ kinh ngạc, “A, thật mạo muội quá.”
“Tôn đại nương, đại nương cứ đi đi, ta ăn trong này cũng được. Tiểu Lý, Vương chưởng quỹ, hai người cứ ra tiếp khách đi.” Người nọ xua đi mấy tiểu nhị, quay lại khiêm tốn cười với Phương Tấn, “Các hạ đã thịnh tình, Lạc Bình sao dám từ chối, xin ngồi xuống, bữa này ta mời huynh.”
Lạc Bình không ngờ lại gặp người này ở đây.
Kiếp trước, khi bị bãi quan mười năm, hắn buồn bực quay lại quê nhà, một lòng ngẫm nghĩ làm sao để trở về chốn quan trường. Hắn không mở tửu quán ở ngoại ô như hiện tại, vì vậy khi đó cũng không thể gặp Phương Tấn.
Hiện giờ nghĩ lại, lúc ấy người này không phải đột ngột xuất hiện bên cạnh Chu Đường, nguyên lai là ngay từ một năm này, y đã bắt đầu giao thiệp với triều chính Đại Thừa.
Cùng uống vài chén rượu, hai người mặt ngoài thì trò chuyện rất vui, kỳ thật trong lòng đều ôm tâm tư khác.
Phương Tấn đang dò xét lai lịch của Lạc Bình, còn Lạc Bình đang dò xét mục đích của Phương Tấn. Cả hai đều trí tuệ hơn người, rất nhanh đã có thể tự đưa ra kết luận.
Phương Tấn nhớ rõ, vài năm gần đây trong triều có vị Lạc Tự khanh rất được Hoàng Thượng coi trọng, nghe nói đầu năm nay hắn gây tội, bị bãi quan mười năm, xem ra chính là vị lão bản ôn hòa thận trọng này.
Mà Lạc Bình cũng đã thám thính được thế lực nơi Phương Tấn đang muốn nương nhờ, “Thái tử điện hạ?”
Phương Tấn chậm rãi đáp, “Đúng vậy, tại hạ tuy chỉ là một mãng phu, nhưng vẫn muốn vì quốc tận trung, vì xã tắc Đại Thừa mà mưu phúc. Nghe nói Thái tử điện hạ nhân hậu hiền đức, nên muốn đến làm phụ tá cho Người.”
Lạc Bình lắc đầu cười nói, “Nếu các hạ là mãng phu (kẻ thô thiển), thì Đại Thừa không có hiền sĩ.”
Phương Tấn nói, “Lạc huynh khen nhầm rồi. Ở trước mặt huynh, Phương mỗ nào dám tự xưng là hiền sĩ.”
Lạc Bình khoát tay, “Đều là chuyện quá khứ,” Hắn ngừng một chút mới nói, “Lạc Bình đã không còn ở triều đình, theo lý thuyết thì không nên nhiều lời, bất quá cùng các hạ nhất kiến như cố (mới gặp đã thân), vẫn muốn khuyên các hạ một câu.”
“Xin cứ nói, đừng ngại.”
“Thái tử tuy rằng hiền đức, rất đáng để làm phụ tá, nhưng tiếc là…”
“Tiếc là?”
“Tiếc là, phúc thọ không đủ.”
Than khẽ một câu, Lạc Bình đứng dậy muốn đi, Phương Tấn vươn tay ngăn cản hắn, “Xin Lạc huynh chỉ giáo cho? Không phải huynh biết được biến cố gì chứ?”
Lạc Bình gỡ tay mình ra, “Lạc mỗ chỉ dám nói vậy, xin các hạ tự thu xếp ổn thoả.”
Mới vừa đi được hai bước, ai ngờ bị cản lại lần nữa, Lạc Bình bất đắc dĩ nhìn y.
Phương Tấn cũng không hỏi thêm chuyện của Thái tử, chỉ thân thiết nói, “Lạc huynh xuất môn như vậy, không biết là có lạnh không?”
Trong mắt y, Lạc Bình ăn mặc thật sự quá mỏng manh, y có nội công hộ thể mà còn cảm thấy bên ngoài rét buốt, không khỏi lo cho hắn thể chất thư sinh, chẳng biết có chịu nổi không.
Lạc Bình cười nhẹ, “Không ngại, ta không sợ lạnh.”
“Không sợ lạnh? Nhưng tay huynh lạnh lắm.”
“Ừ, có thể là do thói quen trước đây, không thấy khó chịu.”
Có lẽ bởi vì phải chờ đợi mỏi mòn trong Vô Xá lao kiếp trước, hoặc cũng có thể bởi vì đã vòng qua âm tào địa phủ một lần, Lạc Bình phát hiện mình quả thật không còn sợ rét. Ngay cả khi thân thể lạnh ngắt như băng, hắn cũng không cảm thấy gì. Hắn nghĩ, đại khái chắc đây là di chứng đi.
Sau khi Lạc Bình rời khỏi, Phương Tấn lâm vào trầm tư.
Y nhớ ánh mắt kinh ngạc của Lạc Bình khi mới nhìn thấy y, giống như từ lâu trước kia hắn đã biết y rất rõ.
Nhưng chính bản thân y lại không có ấn tượng gì. Đừng nói tới chuyện y có khả năng gặp qua là nhớ, mà theo lý thuyết, một người kỳ diệu như vậy, chỉ cần gặp một lần, vô luận như thế nào y cũng sẽ không thể quên…