Chương 30: Chương 12 phần 3

Không có dấu hiệu nào của Sam. Không dấu hiệu của Vicks. Không có gì trên điện thoại của tôi. Tôi gần như phát điên lên vì căng thẳng, tự hỏi điều gì đang diễn ra. Trong khi đó, David đã nốc hai ly whisky, xực ba gói khoai tây rán giòn và bây giờ đang chén một đĩa đồ ăn nhẹ kiểu Mexico.

“Cô em có quan tâm đến đồ chơi trẻ con không, Poppy?” bỗng dưng anh ta nói.

Tại sao tôi lại quan tâm đến đồ chơi trẻ con cơ chứ?

“Thường thôi,” tôi lịch sự nói, nhưng anh ta phớt lờ. Anh ta lấy từ trong cặp ra một chiếc găng tay hình con rối bằng lông thật màu nâu và cho nó nhảy vòng quanh bàn.

“Đây là Ông Gấu Béo. Rất được các bạn nhỏ ưa thích. Có muốn thử không?”

Không, tôi không muốn thử gì cả. Nhưng, để cho cuộc nói chuyện tiếp tục, tôi nhún vai. “Cũng được.”

Tôi không biết phải làm gì với một cái găng tay rối, nhưng David có vẻ phấn khích ngay khi tôi đeo nó vào tay.

“Cô em rất tự nhiên! Cô em mà đeo cái này đến sân chơi hay một bữa liên hoan của bọn trẻ con, đại loại thế, chúng nó sẽ nhảy cỡn lên à xem. Và hễ đẹp là có lãi. Poppy, cô em không tin nổi đâu.” Anh ta đập mạnh xuống bàn. “Hơn nữa lại linh hoạt. Cô em có thể bán trong giờ làm việc. Anh sẽ cho cô em xem cả bộ sản phẩm...” Anh ta thọc tay vào cặp lần nữa lấy ra một tập hồ sơ bằng nhựa.

Tôi tròn mắt nhìn anh ta bối rối. Anh ta muốn nói gì cơ, bán chúng á? Chắc anh ta không định bảo...

“Anh viết tên cô em có đúng không?” Anh ta ngẩng lên, tôi há hốc miệng nhìn tập hồ sơ anh ta vừa viết. Sao anh ta lại viết tên tôi lên trên một tập hồ sơ có in chữ: “Thỏa thuận làm đại lý chính thức sản phẩm Ông Gấu Béo”?

“Cái cô em làm ban đầu là nhận ít hàng ký gửi. Ví dụ… một trăm cái.” Anh ta phẩy tay vẻ thoải mái. “Cô em sẽ bán hết số đó trong vòng một ngày, dễ ợt. Đặc biệt đi kèm với quà tặng miễn phí mới của bọn anh, Ông Phù Thủy.” Anh ta đặt lên mặt bàn một hình phù thủy bằng nhựa và nháy mắt với tôi. “Bước tiếp theo mới lý thú. Tuyển dụng chính thức!”

“Anh dừng lại đi!” Tôi tháo tuột chiếc găng tay rối ra. “Tôi không muốn bán găng tay rối đâu! Tôi không làm việc này đâu!”

David hình như còn không thèm nghe tôi nói. “Như anh nói, việc này hoàn toàn linh hoạt. Rất có lãi, cô em bỏ túi luôn...”

“Tôi không muốn bỏ túi đồng lãi nào cả!” Tôi nghiêng người qua bàn. “Tôi không muốn tham gia đâu! Dù sao cũng cảm ơn anh!” Để chắc ăn, tôi lấy bút của anh ta gạch ngang hai từ “Poppy Wyatt” trên tập hồ sơ, David rùng mình như thể tôi vừa làm anh ta bị thương.

“Hừm! Không cần phải làm thế! Anh đây chỉ định giúp cô em thôi.”

“Cảm ơn anh.” Tôi cố gắng tỏ ra lịch sự. “Nhưng tôi không có thời gian đi bán Ông Gấu Béo. Hay là...” Tôi nhặt ông phù thủy lên. “Đây là ai vậy? Dumbledore à?”

Thật bát nháo. Một ông phù thủy thì liên can gì với ông gấu béo?

“Không phải!” David có vẻ bị xúc phạm ghê gớm. “Đây không phải là Dumbledore. Đây là Ông Phù Thủy. Một chương trình truyền hình mới. Nhân vật chính tiếp theo. Lẽ ra đã được dàn dựng như thế.”

“Đã ư? Xảy ra chuyện gì vậy?”

“Đã bị hoãn tạm thời,” anh ta nói ráo hoảnh. “Nhưng nó vẫn là một sản phẩm rất lý thú. Đa chức năng, không bị vỡ, thích hợp với các bé gái cũng như bé trai... Anh có thể nhượng lại cho cô em năm trăm cái với giá... hai trăm bảng nhé?”

Anh ta có bị khùng không?

“Tôi không muốn một ông phù thủy nhựa nào cả,” tôi nói lịch sự nhất có thể. “Dù sao cũng cảm ơn anh.” Đột nhiên một ý nghĩ vụt qua đầu tôi. “Thế anh có bao nhiêu Ông Phù Thủy như thế này?”

David trông như thể không muốn trả lời câu hỏi. Cuối cùng anh ta nói, “Anh nghĩ hiện tồn kho mười nghìn cái,” đoạn nốc một ngụm whisky.

Mười nghìn ư? Ôi Chúa ơi. Tội nghiệp David Robinson. Bây giờ tôi cảm thấy rất thương hại anh ta. Anh ta sẽ làm gì với mười nghìn ông phù thủy nhựa đây? Tôi sợ không dám hỏi anh ta có bao nhiêu ông gấu béo.

“Có khi Sam biết ai đó muốn bán chúng,” tôi động viên. “Nhà nào có trẻ con ấy.”

“Có khi.” David sầu thảm ngước mắt lên khỏi chén rượu. “Hãy cho anh biết một chuyện. Sam có còn trách anh về chuyện làm ngập nhà cậu ấy không?”

“Anh ấy không hề nhắc đến việc này,” tôi thành thực nói.

“Ờ, có lẽ thiệt hại không đến nỗi ghê gớm như vẻ bề ngoài. Bể cá Albany khốn nạn.” David trông thiểu não. “Rất chán. Và lũ cá cũng chẳng khá gì hơn. Lời khuyên đấy, Poppy. Tránh xa bọn cá ra em ạ.”

Tôi cắn môi thật chặt để không bật cười khúc khích.

“OK,” tôi gật đầu với vẻ nghiêm túc nhất có thể. “Tôi sẽ ghi nhớ điều này.”

Anh ta vét sạch miếng bánh cuối cùng, thở phì phò nhìn quanh quầy rượu. Ố ồ. Anh ta có vẻ ngồi không yên. Tôi không thể để anh ta đi linh tinh được.

“Thế hồi đại học Sam là người như thế nào?” tôi hỏi, để kéo dài câu chuyện thêm chút nữa.

“Đầy tham vọng.” David trông có vẻ hơi dỗi. “Cô em biết kiểu người đấy rồi còn gì. Trong đội chèo thuyền của trường. Biết là cậu ta rồi sẽ thành công mà. Hơi chuệch choạng một chút vào năm thứ hai. Gặp phiền toái một chút. Nhưng cũng dễ hiểu.”

“Sao thế?” tôi nhăn trán, không hiểu gì.

“Ờ, cô em biết đấy.” David nhún vai. “Sau khi mẹ cậu ta qua đời.”

Tôi cóng người, ly rượu giơ lưng chừng lên miệng. Anh ta vừa nói gì vậy?

“Tôi xin lỗi,” tôi lúng túng che giấu cú sốc. “Anh vừa mới nói là mẹ Sam mất rồi à?”

“Cô em không biết à?” David có vẻ ngạc nhiên. “Vào đầu năm thứ hai. Bệnh tim, anh nghĩ thế. Bác ấy không được khỏe, nhưng không ai nghĩ bác ấy sẽ qua đời sớm thế. Sam rất đau đớn, khổ thân thằng bé. Mặc dù anh luôn nói với cậu ta là mẹ tớ cũng như mẹ cậu, bất cứ lúc nào cậu muốn...”

Tôi không nghe nữa. Đầu tôi đang ù lên lẫn lộn. Sam nói đó là bạn mình. Tôi biết anh ta đã nói thế. Tôi có thể nghe lại tiếng anh ta: Mẹ bạn tôi qua đời khi chúng tôi vào đại học. Nhiều đêm tôi nói chuyện với cậu ấy. Rất nhiều đêm... Điều đó không bao giờ có thể chìm vào quên lãng cả...

“Poppy?” David đang vay trước mặt tôi. “Cô em không sao chứ?”

“Không sao!” Tôi cố mỉm cười. “Xin lỗi. Tôi... tôi cứ nghĩ đó là mẹ một người bạn của anh ta. Không phải chính là mẹ Sam. Chắc là tôi nhầm. Tôi thật ngớ ngẩn, ơ, anh có muốn một ly whisky nữa không?”

David không nói gì trước lời mời của tôi. Anh ta im lặng một lát, rồi ném cho tôi cái nhìn dò xét, xoay xoay ly rượu cạn trong tay. Hai ngón tay cái to đùng của anh ta vẽ thành một đường trên chiếc ly, và tôi nhìn vào đó như bị thôi miên.

“Cô em không nhầm lẫn,” cuối cùng anh ta nói. “Sam không kể với cô em, phải vậy không? Cậu ta nói đó là mẹ của một người bạn.”

Tôi tròn mắt nhìn anh ta, sửng sốt. Tôi tưởng anh chàng này là kẻ đần độn quê mùa. Nhưng anh ta đã rất tinh ý.

“Đúng vậy,” cuối cùng tôi thừa nhận. “Anh ấy kể thế. Sao anh biết?”

“Tính Sam kín đáo như vậy đấy.” David gật gù. “Khi chuyện xảy ra... khi mẹ cậu ta mất... Mấy ngày liền cậu ta chẳng kể cho bất kỳ ai ở trường biết. Ngoài hai người bạn thân nhất.”

“Ra thế.” Tôi ngập ngừng hồ nghi. “Đó là... anh à?”

“Anh ư?” David bật ra một tiếng cười ngắn buồn bã. “Không, không phải anh. Anh không nằm trong diện đó. Đó là Tim và Andrew. Hai người ấy là cánh tay phải của cậu ta. Cùng hội cùng thuyền. Cô em biết họ chứ?”

Tôi lắc đầu.

“Mấy người này dính với nhau như hình với bóng, kể cả bây giờ. Tim làm ở Merrill Lynch, Andrew là luật sư ở phòng luật nào đó. Và tất nhiên Sam rất thân với Josh, anh trai mình.” David bổ sung. “Anh ta lớn hơn cậu ấy hai tuổi. Thường đến thăm. Giúp Sam giải quyết vấn đề khi gặp khó khăn. Nói chuyện với người phụ trách của Sam. Một ông anh tốt.”

Tôi cũng không biết là Sam có anh trai. Trong khi ngồi đó, thẩm thấu tất cả những điều này, tôi thoáng có cảm giác như bị trừng phạt. Thậm chí tôi chưa bao giờ nghe nói tới Tim hay Andrew hay Josh. Nhưng làm sao tôi có thể biết về họ? Chắc họ nhắn tin trực tiếp cho Sam. Chắc họ liên lạc với nhau như những người bình thường. Riêng tư. Không như Willow Phù Thủy hay những tay bạn cũ cố tìm cách xoay ít tiền.

Một lát sau có trả lời của anh:

Xxxxxxxxxx

Ha! Vừa bụm miệng cười, tôi vừa gõ một dòng nụ hôn thậm chí còn dài hơn.

Xxxxxxxxxxxx

Xxxxxxxxxxxxxx

Xoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxo

Xoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxoxox

XXX XXX XXX

Tôi thấy cô rồi.

Tôi lại căng mắt nhìn vào bóng đêm lần nữa, nhưng chắc anh ấy phải có thị lực tốt hơn tôi bởi vì tôi chẳng thấy gì cả.

Thật vậy sao?

Tới liền.

Tôi nghiêng người về phía trưóc, nghển cổ, nheo mắt tìm xem có vệt ánh sáng nào không, nhưng chẳng có gì cả. Chắc anh nhìn thấy ánh đèn nào khác.

Tôi không thấy anh.

Tôi tới liền.

Chẳng thấy anh đâu cả.

Tôi đây rồi. Đến ngay.

Và đột nhiên tôi nghe tiếng bước chân anh lại gần. Anh ở phía sau tôi, cách khoảng chục mét, đoán vậy. Thảo nào tôi không nhìn thấy anh.

Lẽ ra tôi nên quay người lại. Ngay bây giờ, tôi nên quay người lại. Quay lại chào hỏi anh cũng là việc tự nhiên thôi. Nói một tiếng chào; vẫy vẫy điện thoại trong không khí.

Nhưng chân tôi mọc rễ tại chỗ. Tôi không nhúc nhích nổi. Bởi vì ngay khi tôi làm thế, sẽ đến lúc phải lịch sự và thực tế mà quay trở lại bình thường. Và tôi không thể chịu nổi điều đó. Tôi muốn dừng lại ở ngay đây. Ở nơi chúng tôi có thể không nói gì với nhau. Chìm trong bùa mê.

Sam dừng lại, ngay phía sau tôi. Có một giây mong manh không chịu đựng nổi khi tôi đợi anh phá tan im lặng. Nhưng như thể Sam cũng có chung cảm giác. Anh không nói gì cả. Và tất cả những gì tôi nghe thấy là hơi thở nhịp nhàng của anh. Chậm rãi, cánh tay Sam vòng quanh người tôi từ phía sau. Tôi nhắm mắt lại, tựa người vào ngực anh, cảm giác như trong mơ.

Tôi đang đứng giữa rừng với Sam và anh vòng tay ôm tôi, thực sự không nên như thế. Tôi không biết mình đang làm gì nữa. Tôi không biết như thế này mình sẽ đi đến đâu đây.

Có điều... tôi biết. Dĩ nhiên là tôi biết. Bởi vì khi cánh tay anh nhẹ nhàng ôm lấy eo tôi, tôi không buột ra một tiếng. Khi anh xoay người tôi lại đối diện với anh, tôi không buột ra một tiếng. Và khi tóc anh xòa lên mặt, tôi không buột ra một tiếng. Tôi không cần làm thế. Chúng tôi vẫn đang nói chuyện. Từng cái đụng chạm của Sam, từng dấu ấn của da thịt anh cũng giống như một từ khác, một ý nghĩ khác, một sự tiếp nối của cuộc chuyện trò giữa hai chúng tôi. Và chúng tôi vẫn chưa chấm dứt. Vẫn chưa.

Tôi không biết chúng tôi đã ở đây bao lâu rồi. Năm phút chăng. Hay mười phút.

Nhưng khoảnh khắc này không thể kéo dài mãi mãi, và nó chẳng kéo dài. Bong bóng không hẳn vỡ tung mà bay hơi dần, đưa chúng tôi trở lại thế giới thực. Nhận ra mình đang ôm nhau, chúng tôi ngượng ngùng tách ra, cảm nhận luồng khí đêm buốt giá xuyên qua người mình. Tôi nhìn đi chỗ khác, hắng giọng, xoa xoa da để xóa dấu vết của anh.

“Vậy chúng ta...”

“Vâng.”

Trong khi chúng tôi rảo bước xuyên qua rừng, không ai nói gì cả. Tôi không thể tin nổi những gì vừa diễn ra. Chưa gì đã giống mơ rồi. Một điều bất khả.

Ở trong rừng. Không ai nhìn thấy hay nghe thấy. Vậy có đúng là chuyện đó đã xảy ra không? [Một câu hỏi nữa cho bác Antony Tavish. Đùa đấy.] Điện thoại của Sam kêu u u, lần này anh áp lên tai nghe.

“Chào chị Vicks.”

Và như thế, chuyện đã chấm dứt. Tới bìa rừng, tôi thấy một nhóm người đang sải bước về phía chúng tôi. Màn tiếp theo bắt đầu. Chắc chắn tôi hơi bàng hoàng với những gì vừa diễn ra giữa tôi và Sam nên không thể tập trung vào hiện tại. Tôi ý thức được là Vicks, Robbie và Mark thảy đều cao giọng, còn Sam vẫn bình tĩnh, Vicks gần như bật khóc, một phản ứng có vẻ không thể nào xảy ra đối với chị ta, và nói chuyện về tàu xe với họp báo khẩn cấp, thế rồi Mark nói: “Ngài Nicholas gọi cho anh, Sam,” rồi mọi người lùi lại một bước, gần như kính cẩn khi Sam bắt máy.

Rồi đột nhiên ô tô đến đưa tất cả mọi người về lại London, chúng tôi đi về phía đường xe chạy, Vicks đang nhặng xị chỉ huy mọi người, tất cả sẽ họp mặt tại văn phòng lúc bảy giờ sáng.

Tôi được chỉ định ngồi cùng xe với Sam. Khi tôi bước lên xe, Vicks ghé người vào nói: “Cảm ơn, Poppy.” Tôi không thể xác định nổi chị ta có nói giọng châm biếm hay không.

“Không có gì,” tôi nói, cứ xem như chị ta không có ý châm biếm. “Với cả... em xin lỗi. Về..”

“Ừ,” chị ta nhăn nhó nói.

Rồi thì xe lăn bánh. Sam đang chú mục nhắn tin, một nếp nhăn sâu hiện trên gương mặt anh. Tôi không dám ho he một tiếng. Tôi kiểm tra điện thoại xem có thư của Magnus không, nhưng không có gì cả. Tôi bèn bỏ nó xuống ghế và đưa mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn những ngọn đèn đường nhòe đi thành một vệt sáng, tự hỏi thiên địa quỷ thần ơi, tôi đang đi đâu thế này.

Tôi thậm chí không biết là mình đã ngủ thiếp đi.

Nhưng chẳng hiểu thế nào, đầu tôi gối lên ngực Sam, anh đang gọi “Poppy? Poppy?” và đột nhiên tôi tỉnh hẳn dậy, cổ vẹo sang một bên, tôi đang nhìn ra ngoài cửa sổ xe từ một góc độ đáng buồn cười.

“Ồ.” Tôi lồm cồm ngồi dậy, co rúm người, đầu ong ong. “Xin lỗi. Trời. Lẽ ra anh nên...”

“Không sao cả. Đây có phải là địa chỉ của cô không?”

Tôi đờ đẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi đang ở Balham. Chúng tôi ở bên ngoài khu chung cư tôi sống. Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm.

“Đúng vậy.” Tôi nói, không thể tin nổi. “Đây là nơi tôi ở. Làm sao anh

Sam chỉ hất cằm về phía điện thoại của tôi, vẫn nằm trên ghế. “Địa chỉ của cô ở trong đó.”

“Ồ. Đúng vậy.” Tôi khó có thể phàn nàn anh xâm phạm đời tư của mình.

“Tôi không muốn đánh thức cô.”

“Không. Đương nhiên rồi. Tốt lắm.” Tôi gật đầu. “Cảm ơn anh.”

Sam nhặt điện thoại lên có vẻ định đưa cho tôi - rồi anh lại lưỡng lự.

“Tôi đã đọc thư từ của cô, Poppy ạ. Tất cả.”

“Ồ.” Tôi hắng giọng, không biết nên phản ứng lại thế nào. “Chà. Hừm. Như thế... Như thế hơi quá, anh có nghĩ vậy không? Ý tôi là, tôi biết tôi đọc thư của anh, nhưng anh không cần phải...”

“Đó là Lucinda.”

“Sao cơ?” Tôi thần người ra nhìn anh.

“Tôi cược tiền đấy. Lucinda là cô ả đó.”

Lucinda ư?

“Nhưng cái... Tại sao?”

“Cô ta nói dối cô. Thường xuyên. Làm sao cô ta có mặt ở tất cả những chỗ ấy vào thời điểm cô ta nói được. Không thể nào.”

“Thực ra thì... tôi cũng thấy thế.” Tôi thú nhận. “Tôi cứ nghĩ chị ta cố tìm cách tính tiền tôi nhiều hơn, hay đại loại thế...”

“Cô ta nhận tiền theo giờ à?”

Tôi xoa mũi, cảm thấy mình thật ngu ngốc. Trên thực tế, không phải vậy. Phí tính trọn gói.

“Cô đã bao giờ nhận thấy Magnus và Lucinda lúc nào cũng nhắn tin cho cô người này sau người kia trong vòng mười phút không?”

Tôi chậm chạp lắc đầu. Sao tôi có thể nhận ra điều đó? Tôi có hàng tỷ tin nhắn mỗi ngày, từ đủ loại người. Với cả, làm sao anh ấy lại nhận ra điều đó?

“Lúc mới đi làm, tôi là nhà phân tích.” Trông anh hơi xấu hổ. “Đây là nghề của tôi.”

“Cái gì là nghề của anh cơ?” tôi bối rối nói.

Sam chìa ra một mẩu giấy, tôi liền đưa tay lên che miệng. Không thể tin nổi. Anh đã vẽ một biểu đồ. Thời gian và ngày tháng. Cuộc gọi. Tin nhắn. Email. Anh ấy ngồi làm việc này trong khi tôi ngủ thiếp đi ư?

“Tôi đã phân tích thư từ của cô. Cô sẽ thấy chuyện gì đang diễn ra.”

Anh đã phân tích thư từ của tôi. Người ta phân tích thư từ như thế nào?

Anh đưa cho tôi mẩu giấy, tôi chớp mắt nhìn nó.

“Cái...”

“Cô có thấy mối tương quan không?”

Mối tương quan. Tôi chẳng hiểu anh đang nói chuyện gì. Nghe cứ như trong giờ kiểm tra toán.

“Ừm...”

“Xem ngày này chẳng hạn.” Anh chỉ vào tờ giấy. “Cả hai người đều gửi thư khoảng lúc sáu giờ chiều hỏi cô thế nào, ba hoa chích chòe. Rồi đến tám giờ tối, Magnus bảo cô là anh ta ngồi nán lại làm việc thêm ở Thư viện London và một vài phút sau Lucinda bảo cô là cô ta đang xem mẫu nịt tất của phù dâu ở một xưởng quần áo thời trang tại Shoreditch. Vào lúc tám giờ tối á? Cho tôi xin.”

Tôi im lặng một lát. Bây giờ tôi nhớ bức thư về vụ nịt tất rồi. Nó có vẻ hơi kỳ cục, lúc đó tôi đã thấy thế. Nhưng người ta không thể nhảy ngay đến kết luận sau một bức thư kỳ cục, đúng không?

“Nhưng mà ai bảo anh phân tích thư từ của tôi?” Tôi biết nghe giọng mình rất cáu kỉnh, nhưng tôi không nhịn được. “Ai nói đó là việc của anh?”

“Không ai cả. Lúc đó cô đang ngủ.” Anh chìa tay ra. “Tôi xin lỗi. Tôi chỉ rỗi việc và rồi một mô hình hiện ra.”

“Hai bức thư không phải mô hình.”

“Không chỉ hai đâu.” Anh chỉ vào tờ giấy. “Ngày hôm sau, Magnus có một hội thảo buổi tối đặc biệt mà anh ta ‘quên’ không nhắc tới. Năm phút sau, Lucinda nói với cô về một cửa hàng đăng ten ở Nottinghamshire. Nhưng hai giờ trước đó cô ta ở Fulham. Từ Fulham tới Nottinghamshire? Vào giờ cao điểm? Như thế không thật. Tôi đoán đó là chứng cứ ngoại phạm.”

Mấy từ “chứng cứ ngoại phạm” khiến tôi cảm thấy hơi ớn lạnh.

“Hai ngày sau, Magnus nhắn tin cho cô, hủy buổi hẹn ăn trưa. Một lát sau, Lucinda viết thư, bảo rằng cô ta bận kinh khủng đến tận hai giờ chiều. Cô ta không nói lý do tại sao phải viết thư cho cô. Tại sao cô ta lại cần báo cáo rằng cô ta bận kinh khủng vào giờ ăn trưa?”

Anh ngẩng lên nhìn, chờ đợi câu trả lời. Cứ như thể tôi có câu trả lời không bằng.

“Tôi... tôi không biết.” Cuối cùng tôi nói. “Tôi không biết.”

Trong khi Sam tiếp tục, tôi dùng nắm tay day day mắt. Bây giờ tôi hiểu tại sao Vicks làm thế này. Đó là để chặn thế giới bên ngoài lại, chỉ trong một giây. Tại sao tôi lại không nhận ra điều này? Tại sao tôi lại không nhận ra một tí gì?

Magnus và Lucinda. Giống như một trò đùa tồi tệ. Một người lẽ ra phải tổ chức đám cưới của tôi. Một người lẽ ra phải ở trong đám cưới của tôi. Với tôi.

Nhưng đợi đã. Đầu tôi nảy ra một ý. Ai đã gửi cho tôi tin nhắn vô danh? Lý thuyết của Sam không thể đúng, bởi vì ai đó đã gửi nó. Không thể nào là bạn của Magnus gửi, và tôi không biết người bạn nào của Lucinda, thế thì người quái quỷ nào...

“Cô nhớ lần Magnus nói anh ta phải chỉ dẫn ột cậu sinh viên làm luận án tiến sĩ nào đó không? Và Lucinda đột ngột rút lui khỏi cuộc hẹn uống nước với cô? Cô ta cử Clemency đi thay. Nếu cô nhìn vào thời điểm...”

Sam vẫn đang nói nhưng tôi hầu như không nghe thấy tiếng anh. Tim tôi thắt lại. Dĩ nhiên rồi. Clemency.

Clemency.

Clemency mắc chứng khó đọc. Chắc con bé đã viết nhầm “chồng chưa cưới” thành “vợ chưa cưới.” Chắc vì quá sợ Lucinda nên nó không dám để tên. Nhưng nó muốn báo tôi biết. Nếu như có điều gì cần phải biết.

Ngón tay tôi run run khi tôi vồ lấy chiếc điện thoại tìm lại mẩu tin nhắn. Bây giờ đọc lại nó, tôi như nghe thấy giọng nói dịu dàng, lo âu của Clemency. Cảm giác đúng là con bé. Nghe giống con bé.

Clemency chắc chắn không bịa đặt ra một việc thế này. Ắt hẳn nó đã tin đó là sự thật. Ắt hẳn nó đã nhìn thấy cái gì... nghe thấy điều gì...

Tôi ngả người ra sau ghế. Chân cẳng tôi đau nhức. Tôi cảm thấy khô ran, rã rời và gần như muốn khóc.

“Mà thôi.” Sam có vẻ nhận ra tôi không nghe nữa. “Ý tôi là, đây chỉ là một giả thiết, vậy thôi.” Anh gấp tờ giấy lại, tôi liền cầm lấy nó.

“Cảm ơn anh. Cảm ơn anh đã làm việc này.”

“Tôi...” Anh nhún vai, hơi lúng túng. “Như tôi đã nói. Đó là nghề của tôi.”

Cả hai chúng tôi đều im lặng một hồi, mặc dù có cảm giác như thể chúng tôi vẫn đang trao đổi. Chừng như suy nghĩ của chúng tôi đang xoay tròn trên đầu, cuộn vào nhau, đan xen, gặp nhau một lát rồi lại tách rời ra. Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi.

“Thế đấy.” Cuối cùng tôi thở hắt ra. “Tôi nên để anh đi về. Muộn rồi. Cảm ơn anh đã...”

“Không,” anh cắt lời tôi. “Đừng buồn cười thế. Tôi phải cảm ơn cô mới đúng.”

Tôi chỉ gật đầu. Tôi nghĩ cả hai chúng tôi có lẽ đều không đủ sức cho những bài diễn văn dài dòng nữa.

“Rất...”

“Vâng.”

Tôi nhìn lên và mắc sai lầm là bắt gặp ánh mắt anh, lấp lánh dưới ánh đèn đường. Và trong một thoáng tôi được đưa trở lại...

Không. Đừng thế, Poppy. Chưa bao giờ diễn ra. Đừng nghĩ đến. Xóa đi.

“Thế, ừm.” Tôi với tay nắm cửa, cố gắng buộc mình quay trở lại với thực tế, với lý trí. “Tôi vẫn phải đưa lại cho anh chiếc điện thoại này...”

“Cô biết gì không? Hãy giữ nó, Poppy. Nó là của cô.” Anh khum tay tôi quanh chiếc điện thoại và giữ chặt tay tôi một lát. “Cô xứng đáng có được nó. Với cả cô không cần phải bận tâm gửi chuyển tiếp gì nữa đâu. Bắt đầu từ ngày mai, tất cả thư từ của tôi sẽ được gửi về thư ký riêng mới của tôi. Nhiệm vụ của cô đến đây đã hoàn tất rồi.”

“Ờ, cảm ơn anh!” Tôi mở cửa - rồi không kìm được bèn xoay người lại. “Sam... tôi hy vọng mọi việc của anh sẽ ổn cả.”

“Đừng lo cho tôi. Tôi sẽ không sao đâu.” Anh nở nụ cười tuyệt vời và đột nhiên tôi cảm thấy như muốn ôm chặt lấy anh. Anh sắp mất việc mà vẫn có thể cười như vậy. “Tôi hy vọng mọi việc của cô sẽ ổn cả,” Sam nói thêm. “Tôi xin lỗi về... tất cả.”

“Ồ, tôi sẽ không sao đâu.” Tôi cười giòn, mặc dù chẳng hiểu mình định nói gì. Chồng sắp cưới của tôi léng phéng với người tổ chức đám cưới cho tôi. Tôi sẽ ổn cả theo nghĩa nào đây?

Người lái xe hắng giọng, và tôi chuẩn bị bước ra. Đã nửa đêm. Tôi ngồi trong một chiếc xe trên phố nhà mình. Đi nào, Poppy. Hãy xử sự cho đúng vào. Nhúc nhích đi. Cuộc nói chuyện cần phải chấm dứt.

Dù rằng không hề muốn, tôi buộc mình phải bước xuống, dập cửa và nói: “Tạm biệt!” rồi đi về phía nhà mình mở cửa, bởi vì trực giác cho tôi biết Sam sẽ không rời đi cho đến khi anh thấy tôi đã an toàn vào nhà. Rồi tôi ra ngoài trở lại, đứng trên bậc cửa, nhìn xe anh rời xa.

Khi xe đi qua góc phố, tôi kiểm tra điện thoại, nửa hy vọng, nửa chờ đợi...

Nhưng điện thoại tối om và im lặng. Nó vẫn tối om và im lặng. Và lần đầu tiên sau một thời gian dài, tôi cảm thấy cô đơn vô cùng.