“A Uyển nàng mặc như vậy là muốn đi đâu?”
Túc Hành nhìn Tần Uyển mặc một bộ xiêm y thuần trắng hỏi. Lúc này đã tới giữa canh ba, ngoài trời mưa phùng giăng đầy, còn Tần Uyển lại vén tóc lên, đầu đội đấu lạp, tay trái cầm áo tơi dầy cộm.
Không ngờ hắn sẽ xuất hiện, nhất thời Tần Uyển có chút chột dạ.
Nàng đáp: “Ta không ngủ được, muốn ra ngoài một lát.”
Túc Hành mắt sáng như đuốc: “Có thật không?”
Tần Uyển không dám nhìn vào mắt hắn, gật mạnh đầu. Túc Hành nói: “Vậy được, ta đi với nàng.”
Tần Uyển vội lắc đầu: “Không cần, ta muốn tự mình đi…” Giọng nói càng về sau càng nhỏ, ở dưới đôi mắt chăm chú của Túc Hành, Tần Uyển than nhẹ một tiếng, đầu hàng.
Nàng mở hòm xiểng ra lấy thêm một cái áo tơi nữa cho Túc Hành.
“Ta dẫn ngươi tới một chỗ.”
Hai người rời khỏi căn nhà nhỏ.
Túc Hành không hỏi đi đâu, chỉ luôn đi theo bên cạnh Tần Uyển. Chỉ cần ở nơi có nàng, cho dù có là a tỳ địa ngục hắn cũng vui vẻ chịu đựng.
Lúc trời hửng sáng, Tần Uyển mới dừng bước.
Qua màn mưa, Tần Uyển nhìn về phía Túc Hành, nàng khẽ hỏi: “Ngươi…biết đây là đâu không?”
Túc Hành nhìn khắp xung quanh, không cần suy nghĩ, hắn trả lời ngay: “Biết”. Ánh mắt của hắn trở nên dịu dàng, giọng nói cũng trở nên khàn hơn, hắn nói: “Đây là nơi lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, chính ở nơi này, nàng bảo thị nữ đưa khăn mềm tới cho ta.” Đến nay hắn vẫn luôn cất trong vạt áo, nơi sa trường hung hiểm, mảnh khăn mềm kia chính là bùa hộ thân của hắn, có nó ở đó, hắn mới có thể đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, mới có thể đã chiến ắt thắng.
Nụ cười khẽ nơi xe ngựa vẫn còn như mới trong ký ức hắn.
Là hồ Hàm Quang kết duyên cho hắn với nàng, cũng chính ở hồ Hàm Quang hắn vừa gặp đã yêu nàng.
Tần Uyển khẽ nói: “Ngươi cũng nhớ à.” Trong mấy năm này, nàng cứ một lần lại một lần bước vào trong tranh trở về nơi hai người lần đầu gặp gỡ. Nhưng cho dù là trong tranh vẫn không ngăn cản được nỗi buồn, khi nàng rời khỏi bức vẽ trở về cuộc sống chân thực, vẫn không thể không nhớ tới cái chết của Túc Hành, vị hôn phu của nàng đã không thể gắng gượng cho tới ngày hôn lễ của hai người.
Mưa phùn rơi hồi lâu rốt cuộc cũng ngừng.
Mặt trời vén mây mà mọc, hồ Hàm Quang loang loáng ánh sáng lấp lánh.
Tần Uyển nghiêng người đi, lúc này Túc Hành mới nhìn thấy ngôi mộ sau lưng nàng, trên bia mộ xám trắng có hàng chữ viết đỏ như máu, là mười chữ “Túc Hành chi mộ, vị vong nhân Uyển ai lập”, mười chữ… (ai = đau buồn)
Cả người Túc Hành run lên, lòng như dao cắt.
Nàng cởi áo tơi xuống, bỏ đấu lạp ra, quỳ xuống trước bia mộ, ngón tay thon gầy chạm vào bia mộ lạnh thấu xương, trong mắt nhu tình như nước.
“Sau khi A Hành mất, ta đưa thi thể của chàng tới bên hồ Hàm Quang, tự tay hạ táng chàng, ta tận mắt nhìn quan tài của chàng từng tấc từng tấc chìm vào trong bùn đất, ta rất nhớ chàng. Ngươi với A Hành quá giống nhau, nhìn thấy ngươi ta cứ tưởng như A Hành đã sống lại thật, nhưng ta biết A Hành của ta không thể trở về được nữa.”
Nàng chống vào bia mộ đứng lên, tĩnh lặng nhìn Túc Hành.
“Ngươi nói ngươi là A Hành, hôm nay ngươi có dám khai quan ngay trước mặt ta không?”
Tần Uyển đưa một cái xẻng ra, Túc Hành không nhận lấy. Hắn mang vẻ mặt phức tạp nhìn nàng, ánh nắng chói mắt chiếu lên mặt hắn, mắt hắn híp lại, chợt hắn nói: “Ta…chết như thế nào?”
Tần Uyển nói: “A Hành bị quân địch ám toán, trong mũi tên tẩm kịch độc, phụ thân đã chiêu danh y khắp thiên hạ cho A Hành, dùng hết mọi cách nhưng vẫn không thể nào giải được độc. A Hành không thể sống qua mùng 7 tháng 7.”
Sắc mặt Túc Hành cổ quái.
Tần Uyển rụt tay về, vừa định để cái xẻng xuống, Túc Hành đã tiếp lấy, hắn bảo: “Bất kể nàng nói thế nào, ta cũng chính là Túc Hành.” Hắn bỏ áo tơi ra, bắt đầu dùng xẻng xúc bùn đất.
Sau nửa canh giờ, quan tài dần lộ ra.
Túc Hành cạy nắp quan tài.
Trong quan tài âm u là một khung xương trắng, chỗ xương nơi lồng ngực có nhiễm màu tím đen, tất cả đều giống như lời Tần Uyển nói – Túc Hành trúng tên, độc nhiễm vào tim.
“Ngươi…rốt cuộc ngươi là ai?”