Lại nghe từng đợt tiếng trống dồn dập từ trận quân Bắc Phủ, xe đụng lại bắt đầu tiến lên. Thì ra Khang Hữu Thành thấy đã dừng lại quá lâu, bèn ra lệnh cường công. Quân Bắc Phủ nghe được tiếng trống, buộc phải đẩy xe đụng xông vào trong lửa, dù thân thể bắt lửa nhưng vẫn liều mạng đẩy xe về phía trước. Đẩy được xe qua đai lửa, người cũng chết cháy trong xe, người từ phía sau xông tới dùng thương gạt thi thể cháy sém xuống, tiếp tục đẩy xe về phía trước.
Lúc này những chiếc xe đụng đã vượt qua hai trận, bị hủy không ít, nhưng còn gần trăm cái, xếp thành một đường vọt tới, Đoan quân không còn công sự nào cản nổi, chỉ có tấm thân máu thịt. Mục Như Hàn Giang truyền lệnh: “Nổi trống!” Mấy trăm chiếc trống lớn cùng lúc khua lên, như sấm vang chớp giật, khiến người trên mặt đất đều chấn động run rẩy. Giục trống trận nghĩa là mệnh lệnh quân tiên phong tiến lên, Đoan quân đồng lòng, hét lớn: “Xông lên!” Đồng loạt vọt tới phía trước, dùng lá chắn, thương dài chống lại xe đụng; dù lá chắn có vỡ, thương dài có gãy, người phía trước cũng không thể lui về phía sau, bởi vì người phía sau đều chen lên phía trước, vậy nên bị mũi nhọn trên xe đụng đâm xuyên, người phía sau đẩy thi thể người phía trước đối đầu với xe đụng, mũi nhọn lại từ thi thể trước mặt xuyên qua đâm chết hắn. Cứ như vậy, một mũi nhọn xuyên chết ba bốn người, không thể xuyên thêm được nữa, binh sĩ Đoan quân phía sau vẫn tiếp tục chen lên, hô to: “Bọn ông đây dốc sức xông lên, đẩy ngược thiết xa của bọn cẩu tặc Hữu Kim trở lại!” Binh sĩ phía sau nóng ruột, dẫm lên đỉnh đầu người phía trước, nhảy lên nóc xe đụng, đánh về phía quân địch phía sau xe, vật lộn tại một chỗ.
Suy nghĩ của binh sĩ bình thường không hề giống với các tướng lĩnh, thái thú. Chư hầu chỉ một lòng muốn bảo tồn thực lực để tranh đoạt thiên hạ, nhưng đối với sĩ tốt, đánh với người Đông Lục cũng chết, đánh với người Bắc Lục cũng chết, trống trận vang lên liền biết không thể lùi bước, chẳng quản đối diện là ai; huống hồ Đại Đoan lập quốc ba trăm năm, rốt cuộc vẫn là chính thống trong lòng binh sĩ bách tính, giao tranh với quân Hữu Kim, lòng giết giặc cứu nước bỗng trỗi dậy. Bởi vậy dù chư hầu không cam lòng ra sao, sĩ tốt cũng ra sức tử chiến, lại giúp chủ tướng có được anh danh trung nghĩa.
Quân tiên phong của Đoan quân lấy biển người cản xe đụng, thi thể chồng chất, khiến xe đụng không thể tiến thêm một bước. Thạc Phong Hòa Diệp đứng nhìn từ sườn núi cao phía xa, thở dài một tiếng: “Dù là cơn giận của dân chúng nhỏ bé, nhưng muôn người thành biển, cũng không thể coi thường.”
Đoan quân người đông thế mạnh, giết đỏ cả mắt, vẫn cứ liều mấy ngàn tính mệnh, dùng thân thể cản xe đụng, quân Bắc Phủ tràn tới đằng sau xe đụng cũng sớm bị hai trận trái phải của Đoan quân bao vây, liều mạng ngăn cản. Quân Bắc Phủ không ngừng tăng binh, quân Đoan cũng quăng từng đội quân vào trong, mấy vạn người chém giết loạn xạ ở một chỗ. Hỗn chiến một canh giờ, vẫn giằng co bất phân thắng bại.
Trong trận quân Hữu Kim đột nhiên vang lên ba tiếng kèn lệnh cực dài, tiếng kèn này hoàn toàn khác với âm thanh khi trước, trầm thấp mà ngưng trọng, như cự long gầm rú trong lòng đất, quét qua tai từng binh sĩ Đông Lục, khiến lòng quân run rẩy không thôi.
Mọi người hiểu rõ, lúc liên quân đánh với phản quân của chính Đông Lục đến sức cùng lực kiệt, kỵ quân chủ lực thực sự của Hữu Kim mới xuất động.
Trong trận Hữu Kim, trên cột cờ soái lớn và cao nhất, rốt cục đã treo lên một chuỗi cờ hiệu màu đỏ. Liền sau đó, tiếng pháo hiệu một tiếng lại một tiếng vang lên, quanh quẩn vang dội trong trận hai quân.
Kỵ quân Hữu Kim bắt đầu chậm rãi dàn hàng, ầm ầm mở trận. Các kỵ sĩ lặng lẽ không tiếng động, nhưng âm thanh gót sắt đã làm chấn động toàn bộ bình nguyên.
Ác mộng của bộ binh Đông Lục sắp bắt đầu.
“Đáng tiếc Mục Như thiết kỵ của Đại Đoan triều đã không còn.” Thấy kỵ binh Hữu Kim diễu võ, mỗi tướng sĩ Đông Lục đều thở dài.
...
Thạc Phong Hòa Diệp từ trong trận Hữu Kim, nơi cao nhất trên sườn núi, nhìn ra phía bên kia chiến trường.
Chiến trận khổng lồ của quân Đông Lục triển khai dưới Thiên Khải thành, phạm vi vài chục dặm. Các màu cờ của mười chín lộ quân Cần Vương của Đoan triều lay động, như những ngọn lửa trên đồng trống.
Trong đó, có một lá cờ lớn nhất, thêu một con kỳ lân lửa vờn mây tím, bên trên là hai chữ lớn màu đỏ thẫm: “Mục Như.”
Thạc Phong Hòa Diệp cảm khái trong lòng. Năm ấy, khi chàng nhìn thấy lá cờ này lần đầu tiên, mới chỉ có mười bốn tuổi.
Năm ấy, Thạc Phong Hòa Diệp cũng từ phía đối diện nhìn lại như thế này, vừa nhìn đã thấy lá cờ cực lớn thêu kỳ lân đó. Mà dưới lá cờ ấy, là kỵ binh giáp sắt xếp thành hàng ngũ, giáp trụ lấp lóa làm người ta đau cả mắt.
Vị đại tướng giáp đen bào đỏ ấy chậm rãi giục ngựa từ dưới cờ đi ra, hắn không cao giọng quát tháo, nhưng sự uy nghiêm lộ ra trong giọng nói dường như đè nặng mỗi người.
“Các ngươi tin vào đạo lý thắng làm vua thua làm giặc… Từ thời khắc các ngươi giục ngựa chiến, hẳn đã phải chuẩn bị sẽ chết dưới móng ngựa.”
“Vì sao!” Tộc trưởng Hữu Kim, A Tốc Thấm gào lên dữ dội, “Trời cao thật không công bằng, dựa vào đâu mà bọn ta phải đời đời cư trú ở sa mạc lạnh giá Hãn Bắc, dựa vào đâu mà bọn ta không thể dùng đao kiếm của mình đoạt được ốc thổ chân chính?”
“Vì các ngươi không làm được! Biên giới giữa các bộ lạc đã vạch ra từ ba trăm năm trước, chính là để trên thảo nguyên không tiếp tục tàn sát lẫn nhau, tổ tiên các ngươi khi đó đã chấp nhận rồi.” Vẻ cười của Mục Như Sóc như sư tử cười nhạo kẻ khiêu chiến, “Hôm nay nếu các ngươi cho rằng chỉ cần đánh nhau một cách dũng mãnh thô bạo là có thể thay đổi trật tự của đế quốc này, vậy thì hôm nay, các ngươi sẽ được thấy cái gì là kỵ binh chân chính, và giết chóc chân chính.”
Mục Như Sóc đã làm được, trong một canh giờ Mục Như thiết kỵ đã phá tan sáu vạn liên quân tám bộ Hãn Bắc và toàn bộ ý chí chiến đấu của họ. Tám bộ Hãn Bắc quân lính tan rã, thi thể phủ khắp trăm dặm trên bình nguyên, ngay cả dũng sĩ cường hãn nhất Hữu Kim cũng không thể không thừa nhận rằng bọn họ không có khả năng chiến thắng, có lẽ là vĩnh viễn không thể chiến thắng thiết kỵ của Mục Như thế gia.
Nhưng hiện tại, dưới lá cờ Mục Như, đã không còn hàn quang của vô số kỵ sĩ giáp sắt ấy nữa.
Nơi ấy chỉ còn một người lẻ loi, giọt máu cuối cùng của Mục Như thế gia – Mục Như Hàn Giang.
“Vương tử điện hạ, tiến công được chưa?” Trong trận quân Hữu Kim, một kỵ tướng lại gần Thạc Phong Hòa Diệp, hỏi.
Thạc Phong Hòa Diệp nhìn lại đại quân của mình, chiến mã xếp thành hàng dài tới tận chân trời, mười một năm trước, nếu bên mình có một đội đại quân như vậy, kết cục trận chiến sẽ ra sao? Đáng tiếc thời gian không thể quay ngược, như ngựa thần kéo về phía trước, lật giở sử sách, sức người không thể cản nổi. Ngày hôm nay khi mặt trời xuống núi, thắng bại sẽ phân rõ, điều phải đến nhất định sẽ đến.
Chàng không nói lời nào, chỉ khép hờ mắt, bên tai truyền đến tiếng rền vang năm ấy, chấn động khi vạn mã rầm rập xông tới lại một lần nữa bao phủ chàng.
Miệng Thạc Phong Hòa Diệp xẹt qua một nét cười nhạt, chàng muốn đem toàn bộ những lời Mục Như Sóc nói năm xưa trả lại cho con của hắn: “Hôm nay nếu các ngươi cho rằng chỉ cần đánh nhau một cách dũng mãnh thô bạo là có thể thay đổi trật tự của đế quốc này, vậy thì hôm nay, các ngươi sẽ được thấy cái gì là kỵ binh chân chính, và giết chóc chân chính.”
“Bạo tuyết liệt phong kỵ, xuất chiến thôi.”
...
Trên sườn núi phía bắc lóe ra một tia sáng lạnh, đó là Thạc Phong Hòa Diệp rút đao khỏi vỏ. Ba trăm mặt trống lớn vang dội như sấm sét, trong khoảnh khắc, dường như đỉnh núi trầm lắng cả ngàn đời đột nhiên bắn ra hỏa lưu, như gió bão đã tích tụ quá lâu rốt cục phá tan mây đen, toàn bộ thiết kỵ Hữu Kim rút đao, điên cuồng hét lên giục ngựa, trận mai rùa chậm rãi tràn tới liền biến thành dòng thác cuồng nộ, binh sĩ của liên quân Đông Lục cảm nhận được một cơn lốc dày đặc đang từ phương bắc đè xuống, gió táp làm áo bào của mỗi người bay phần phật, hầu như hít thở không thông.
Tất cả mọi binh sĩ đều đưa mắt nhìn về lá cờ chiến Mục Như, cùng đợi hiệu lệnh từ đó truyền ra.
Mục Như Hàn Giang vẫn đứng dưới lá cờ lớn màu tím thẫm ấy.
Năm xưa khi xảy ra cuộc đại chiến giữa Mục Như tộc và tám bộ Hãn Bắc, chàng mới mười ba tuổi, chỉ là một tiểu công tử kiêu ngạo trong đế đô Thiên Khải. Tự do ra vào hoàng cung, cưỡi ngựa trên phố, trăm quan nhún nhường, dùng ná bắn hỏng biển trên cổng phủ Hữu Thượng thư, cũng không ai dám truy cứu. Phụ thân và các vị huynh trưởng đều đi Bắc Lục đánh trận cả, chàng vui vẻ, tiêu dao tự tại ở đế đô.
Mục Như Hàn Giang khi đó từng cho rằng những ngày như vậy sẽ vẫn tiếp tục trôi qua, tương lai trưởng thành, chàng sẽ thuận lý thành chương vào cung thụ phong tướng quân, giữ lá cờ lớn của Mục Như gia, đi đâu kẻ địch cũng sợ vỡ mật, dân chúng cũng kính bái. Hàng năm mở tiệc vui vẻ, hàng tháng đều sênh ca, cả đời sống trong vinh hoa lóa mắt. Nhưng chàng thật không ngờ, từ trên mây xuống vực thẳm, hóa ra chỉ trong nháy mắt.
Mười năm ở băng nguyên Thương Châu khiến Mục Như Hàn Giang cảm thấy những ngày trước đây thật uổng phí, mười năm này khiến chàng hiểu ra rất nhiều điều, tỷ như tuyệt vọng là gì, hi vọng bị hung hăng giẫm nát là gì. Phụ thân của chàng nói: “Nhi tử, khổ sao? Nhưng phải biết rằng khi tổ tiên của chúng ta khởi binh còn gian nan hơn thế này, sao chúng ta có thể thắng, bởi vì chúng ta chịu đựng gian khổ còn giỏi hơn kẻ địch. Hiện tại ai cũng mong chờ Mục Như thế gia chết ở Thương Châu, nhưng chúng ta phải khiến chúng hiểu, chúng ta sẽ không chết! Dù chỉ còn lại một người, chúng ta cũng sẽ trở lại! Sải bước, ngẩng cao đầu trở lại như một dũng sĩ!”
Mười năm này, Mục Như Hàn Giang học được cách dùng nước xây tường, cách chèo khối băng vượt qua sông, cách tạo lửa trên băng nguyên đầy gió bão, cách dùng mười mũi tên đối phó hai mươi con sói. Mười năm này dài đằng đẵng đến thế, mỗi ngày Mục Như Hàn Giang đều thấy người thân qua đời, mỗi ngày chàng đều biết mình ngày càng trở nên cường tráng, cũng ngày càng lãnh khốc, chàng không còn cảm xúc trước những cái chết, cũng không còn hi vọng trời cao mở lòng. Chàng đứng trong gió tuyết gào thét từng hồi dài, thề rằng tuyệt đối sẽ không chết ở Thương Châu, nếu đây là khổ nạn mà trời xanh giáng xuống, chàng sẽ giận dữ mắng trời xanh, nếu ai muốn đối địch với chàng, chàng sẽ xé rách cổ họng hắn, như khi chàng dùng tay bóp chết hơn trăm con thú hoang.
Tiếng thét của kẻ địch càng cuồng nộ, chỉ làm máu chàng càng thiêu đốt.
“Việc mà phụ thân ta làm được năm xưa, ta muốn làm một lần nữa. Ta muốn thay phụ thân của ta, thay huynh đệ của ta, thay gia tộc của ta thắng trận này!” Mục Như Hàn Giang rút kiếm chỉ về phía trước, thét lớn: “Nổi trống! Toàn quân biến trận!”
...
Đoan quân châm pháo hiệu, tiếng pháo này như chiếc chùy xẻ trời, thì ra Lan Châu có quả lạ, to bằng người, vỏ ngoài cứng rắn như sắt, đặt trong thùng sắt lớn, khi châm lửa dần bị nung đỏ, đột nhiên nổ tung bay lên trời, tiếng truyền trăm dặm. Thạc Phong Hòa Diệp kinh nghi nghe tiếng pháo vang vọng, đột nhiên bốn phía dần dần vang lên một loại thanh âm, như sóng thần ập tới, càng lúc càng vang dội.
Thám mã vội vã phóng tới trước mặt Thạc Phong Hòa Diệp, nói: “Báo! Sau quân doanh ta có kỵ quân Đoan chém giết ra, ước chừng hai vạn, cánh trái đại trận ta có một vạn Đoan quân, đánh vào cờ hiệu của Thái thú Tấn Bắc Trình Tử Danh; cánh phải đại trận ta có một vạn Đoan quân, đánh vào cờ hiệu của Thứ sử Mẫn Hải Viên Lãng, tấn công ba mặt.
“Mục Như Hàn Giang… Quả nhiên đã bố trí bao vây bọc đánh.” Thạc Phong Hòa Diệp không hoảng hốt mà lại cười, “Các tướng quân, học hỏi đi, quan sát binh pháp của Mục Như thế gia nhà người ta.”
Có người dắt ngựa chiến, nâng bội đao lên: “Xin vương tử trang bị trước, để ngừa vạn nhất.” Thạc Phong Hòa Diệp lại khẽ khoát tay, cười, “Không cần. Quân Hữu Kim ngày nay không còn như mười năm trước rồi.”
Chỉ truyền lệnh xuống, lệnh cho kỵ binh bộ Hòa Thuật, bộ Khắc Lạt, bộ Long Cách, ba mặt nghênh địch.
Trướng lớn của Thạc Phong Hòa Diệp nằm trên sườn núi cao trong vòng ba dặm, có thể thấy được cờ hiệu của Đoan quân đến từ bốn phía, phảng phất khắp nơi trong trời đất đều là quân địch. Dù là lão binh Hữu Kim, cũng không vì vậy mà sợ hãi. Thạc Phong Hòa Diệp chỉ vững vàng ngồi trên trên thảm, nói cười uống rượu cùng phó tướng, cờ soái đứng yên bất động. Tiếng chém giết vang lên từ bốn phía, mấy đội đại quân hỗn loạn một chỗ, dưới sườn núi dòng người tràn tới, tên đan vào nhau trên không trung. Vài lần Đoan quân mạnh mẽ vọt tới dưới sườn núi, nhưng đều như nỏ mạnh hết đà, bị cận vệ Thần Tiễn doanh bắn ngã. Thạc Phong Hòa Diệp vẫn tự nhiên uống rượu, trước sau không hề đứng dậy.