Troy Davis bước vào nhà và thất vọng ném lá thư lên quầy bếp. Anh chẳng buồn nhìn nó nữa. Anh thừa biết chẳng có gì khác ngoài vài tờ hóa đơn. Lại giống như mọi khi thôi mà. Anh cảm thấy chán nản, buồn rầu và cô đơn. Thực ra, anh rất mềm yếu, chính Sandy đã khám phá ra điều này. Vợ anh luôn dùng từ cục cằn và kỳ cục để miêu tả anh mỗi khi anh khó chịu. Cứ khi nào Sandy nhắc đến từ đó, anh đều mỉm cười.
Sandy. Anh nhớ người vợ thân yêu của mình vô cùng.
Thời gian vợ anh ở trong viện an dưỡng hai năm, gần như hàng ngày sau giờ làm việc và cuối tuần nào anh cũng đến đó. Viện an dưỡng đã trở thành một phần của gia đình anh và ngoài công việc ra, đi thăm Sandy đã trở thành một thói quen hàng ngày trong cuộc sống của anh. Giờ đây, vợ anh đã đi xa mãi mãi.
Anh có rất nhiều thời gian rỗi mà chẳng biết làm gì.
Bật tivi lên, anh ngồi xuống ghế và xem bản tin thời sự mười phút của Seattle. Anh muốn làm với đi trạng thái trống rỗng này. Trước đây Sandy choán rất nhiều thời gian của anh nên anh chẳng nghĩ đến việc giải trí. Giờ thì anh muốn có thú vui nào đó nhưng chẳng thể nào nghĩ ra điều gì đáng đế dồn công sức vào. Đến lúc nghỉ hưu mà thế này thì không ổn.
Anh thở dài, đứng dậy đi vào bếp. Đã nhiều năm nay, anh tự nấu ăn. Thường thì anh mua những thứ dễ chế biến ở cửa hàng hoặc mua đồ ăn nhanh. Anh học những kỹ năng nấu ăn cơ bản và thuộc lòng cách dùng lò vi sóng. Anh có thể nướng thịt luộc khoai và trộn sa-lát. Tuy nhiên, hiện tại anh chẳng có chút hứng thú nào với việc ăn uống cả. Bụng anh sôi lên báo hiệu đã đến lúc anh nên ăn chút gì đó. Nhưng ngay cả ý nghĩ về những miếng thịt bò ngon lành cũng chẳng hấp dẫn nổi anh. Anh uể oải mở ngăn kéo đựng bánh mì và lôi ra hộp bơ lạc và mứt. Bánh mì tương đối mới và bơ sẽ cung cấp thêm chất đạm - Sandy luôn nói như vậy. Thế là đủ. Anh làm một chiếc bánh xăng-uých. Sandy sẽ kinh hãi nếu thấy anh ăn ngay cạnh cái bồn rửa trong bếp. Nhưng như thế này, nhỡ mứt có rơi xuống, anh sẽ chẳng phải lo lau dọn.
Vợ anh là người thực sự kiên trì và kỹ tính trong việc ăn uống. Anh cảm thấy có lỗi khi vừa ăn ngấu nghiến bữa tối vừa nhìn qua cửa sổ ra ngoài sân sau. Ăn xong, anh uống một cốc sữa. Nó có mùi chua. Anh kiểm tra hạn sử dụng trên hộp và ngay lập tức nhận rà là mình nên đổ sữa đi thì hơn.
Đi ra chỗ quầy bếp, anh nhấc nắp thùng rác lên, vứt sửa vào đó. Rồi anh lục “ô đựng thông tư” - như Sandy vẫn thường gọi đùa - vừa bắt đầu phân loại thư.
Đúng như anh đoán ba cái trên cùng là quảng cáo. Chẳng cần đọc, anh vứt luôn vào thùng rác... Cái thứ tư là hóa đơn tiền nước và cái thứ năm là một tấm thiệp.
Có lẽ là một tấm thiệp chia buồn muộn màng. Địa chỉ người gửi là ở Seattle, nhưng anh không nhận ra cái tên F. Beckwith. Một người bạn của Sandy chăng?
Anh chăm chú nhìn nó một lúc rồi đặt sang một bên để xem vài lá thư còn lại.
Sau đó anh nhặt cái phong lì lên, xé ra rồi cầm lấy tấm thiệp. Anh nhìn ngay xuống chỗ chữ ký.
Faith Beckwith.
Faith Beckwith? Troy chẳng biết ai tên là Beckwith. Anh có biết một người tên là Faith, nhưng cách đấy nhiều năm rồi. Anh liếc sang phía bên kia của tấm thiệp và đọc.
Troy yêu quý, Em rất buồn khi nghe tin vợ anh. Hẳn là cô ấy phải rất đặc biệt. Em đã sẵn sàng tha thứ cho cô ấy đã đánh cắp anh của em.
Chồng em mất cách đây ba năm, và em thực sự hiểu là anh đang rất khó khăn để có thể quen được với chuyện này.
Faith Becwith là tên sau khi đã lấy chồng của Faith Carroll, người yêu từ thời đi học của anh. Faith đã gửi cho anh một tấm thiệp sao? Anh mỉm cười và trước khi kịp nhận ra việc mình làm có hợp lý hay không, anh với lấy điện thoại. Anh nhờ tổng đài tìm số điện thoại ở Seattle và không ngần ngại quay số.
Đến khi chuông bắt đầu reo anh mới bắt đầu nghĩ xem mình nên nói gì? Anh chưa bao giờ là một người đàn ông bốc đồng. Nhưng anh không cần phải nghĩ xem mình làm thế có đúng hay không. Bản năng cho biết là anh đang làm một việc đúng đắn.
“A lô”, một giọng nữ nhẹ nhàng trả lời điện thoại của anh.
“Faith, Troy Davis đây”.
Đầu dây bên kia im lặng và Troy có cảm giác Faith bị sốc.
“Troy, trời ơi, có thật là anh đấy không?”.
Giọng chị vẫn trong trẻo hệt như thời còn đi học. Thời đó, đêm nào họ cũng nói chuyện với nhau hàng tiếng đồng hồ. Họ đã yêu nhau say đắm? Mùa hè sau khi tốt nghiệp, anh vào quân ngũ. Faith tiễn anh bằng những nụ hôn đầy nước mắt, hứa ngày nào cũng sẽ viết thư cho anh, và thời gian đầu chị đã làm như vậy. Rồi bỗng nhiên anh không nhận được thư nữa. Anh chẳng biết có chuyện gì. Không lâu sau đó; một người bạn cho anh biết là Faith đang hẹn hò với một người khác. Lòng anh đau đớn, chị làm mối tình của họ tan vỡ, nhưng giờ thì họ có thể dễ dàng tha thứ cho nhau rồi. Lúc đó cả hai đều quá trẻ. Hơn nữa, nếu Faith không phá vỡ mối quan hệ giữa hai người, chắc anh đã không cưới Sandy.
Và anh không thể tưởng tượng được cuộc sống của anh nếu không có Sandy...
“Anh đã nhận được tấm thiệp của em”, anh nói và giải thích lý do vì sao mình gọi. Sao em lại biết chuyện gia đình anh?”.
Con trai em sống ở vịnh Cedar, Faith nói. Em đến thăm con và cháu, và em có đọc Bản tin vịnh Cedar. Em thường đọc phần tin buồn và...”.
“Em đọc tin về Sandy ở đó à?”.
“Vâng. Em thật sự buồn trước mất mát của anh, Troy ạ. Em không nghĩ là anh muốn nhận được thư của em. Vì vậy em đã không gửi thiệp ngay”.
Troy không biết nói gì nữa cho đến khi nhìn xuống tấm thiệp và đọc lại những dòng chữ ngắn ngủi của chị.
“Ý em là gì khi em nói rằng Sandy đánh cắp mất anh của em?”. Ký ức của anh về mối tình tan vỡ của họ lại cho thấy điều hoàn toàn ngược lại. Bởi chính Faith đã bỏ anh.
Tiếng cười của Faith vang lên trong điện thoại. “Thôi nào Troy. Anh phải biết anh đã làm trái tim em tan vỡ”.
“Gì cơ?”. Anh lắc đầu bối rối. Chị không thể nào quên hết những gì chị đã làm với anh như vậy chứ?
“Theo anh nhớ, em là người đã bỏ anh”.
Một thoáng im lặng. “Sao anh có thể nói vậy?”. Chị hỏi. “Anh thôi không viết cho em nữa”.
“Anh không hề”, anh đáp lại. Anh luôn tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra, và vì quá kiêu hãnh nên anh không thể thú nhận rằng chị đã làm anh bị tổn thương nặng nề như thế nào. Nhưng giờ thì có quan trọng gì nữa đâu. Bao nhiêu năm đã qua rồi.
“Anh giữ máy nhé”, Faith nói. “Dường như một trong hai chúng ta đã nghĩ sai về nhau”.
“Đó là những gì anh đang nghĩ”. Lạ thật, Troy lại cảm thấy thích thú. Anh nghĩ rằng Faith là người có lỗi nhưng anh sẵn sàng tha thứ cho chị.
“Vâng”, chị đáp lại. “Và đó không phải là em”.
“Vậy thì”, anh tiếp tục, chúng mình cùng xem lại những sự kiện của mùa hè năm đó nhé.
“Hay đấy”, chị hào hứng. “Thực ra, ngay sau khi tốt nghiệp, anh đã nhập ngũ”.
“Đúng”. Troy đồng ý với Faith. “Anh vẫn nhớ rất rõ rằng khi chia tay, em đã hứa sẽ mãi yêu anh”.
“Đúng, và em muốn thế. Chị nói không ngần ngại. Ngày nào em cũng viết cho anh”.
“Ban đầu thôi”. Lúc đó, anh sống trong sự chờ mong những lá thư của Faith và khi chị không viết nữa, anh đã không biết phải giải thích thế nào.
“Ngày nào cũng vậy”, chị nhắc lại. “Và rồi anh thôi không viết nữa”.
“Anh ấy à?”.
“Vâng, chính anh”.
Troy im lặng. “Anh không hề thôi, Faith”.
“Em cũng không”.
“Anh đã gọi điện”, anh nói, “và mẹ em bảo rằng em ra ngoài. Lát sau, có ai đó bảo anh rằng em đang hẹn hò với một gã đàn ông khác. Anh nhận được tin nhắn như vậy”.
“Mãi đến tháng Chín năm đó, lúc đi học cao đẳng, em,vẫn chẳng hẹn hò một người đàn ông nào khác ngoài anh”.
Họ lại im lặng.
“Mẹ em”, chị thở chậm. “Mẹ em cũng là người hàng ngày nhận và cất thư của em đi”.
“Bà không thích anh à?”. Troy không biết liệu bà Carroll có khó chịu với anh hay không.
“Mẹ em thích anh, nhưng mẹ nghĩ rằng chúng ta còn quá trẻ để đến chuyện nghiêm túc”, Faith đáp lại. “Em đã sai lầm khi kể với mẹ chuyện của chúng mình. Em cứ hy vọng là anh sẽ tặng em nhẫn đính hôn vào dịp Giáng sinh”.
Thật nực cười là Troy đã từng dự định làm đúng như vậy.
“Ý anh muốn nói là anh tưởng em thôi không viết cho anh?”. Faith hỏi. “Mà chẳng nói mộ lời nào? Anh thật sự tin rằng em nỡ làm thế với anh?”.
“Ừ, đúng vậy”, Troy thú nhận. “Cũng như em cho rằng anh thôi không gửi thư cho em nữa”.
Chị ngập ngừng rồi miễn cưỡng đồng ý. “Anh có tìm cách liên lạc với em sau khi học xong khóa đào tạo cơ bản không?”, chị hỏi. Anh về nhà để nghỉ phép đúng không?
“Tất nhiên là anh có về rồi”. Troy trả lời. “Anh có đến nhà em - đó là vào cuối tháng Tám - nhưng lúc đó em đi học rồi. Anh muốn nói chuyện với em, nhưng khi anh hỏi xin địa chỉ mới của em, mẹ em bảo rằng có lẽ tốt nhất là anh không nên liên lạc với em.
“Mẹ em”, Faith rên rỉ. “Em không bao giờ ngờ rằng mẹ em lại làm như thế.
“Anh cũng vậy”.
Dường như cả hai đều chẳng biết phải nói gì nữa. Cuối cùng, chị thì thầm, “anh làm trái tim em tan vỡ”.
Anh cũng có khác gì đâu. “Em cũng làm tan nát trái im anh”, anh cũng thốt lên với Faith như vậy.
Faith thở nhẹ rồi nói. “Có lẽ mẹ em phải chịu trách nhiệm trả lời chuyện này”.
“Mẹ em vẫn còn sống à?”. Troy không thích moi lại những lỗi lầm của quá khứ.
“Không, mẹ em mất cách đây mười năm rồi”.
“Mặc dù có bao nhiêu chuyện xảy ra, nhưng cuộc sống của chúng ta cũng trôi qua rồi, phải không”, Troy nói. “Có thể không được như chúng ta mong đợi, nhưng...”.
“Vâng”, Faith đáp lại. “Em gặp Carl ở Trung tâm Washington và chúng em cưới nhau năm 1970”.
Lại một sự trùng lặp trớ trêu: “Sandy và anh cũng cưới năm đó. Vào tháng Sáu”.
“Ngày nào?”.
“Ngày hai mươi ba. Thế còn em?”
“Ngày hai mươi ba”.
Lạ thật. Họ đã cưới cùng ngày, cùng tháng, cùng năm - nhưng lại lấy người khác.
“Em có mấy đứa con?”. Anh hỏi.
“Hai đứa - một con trai, Scottie, và một con gái, Jay Lynn. Scottie sống ở vịnh Cedar, như em đã kể với anh, nó dạy học. Jay Lynn thì lấy chồng và là mẹ của hai đứa con. Giờ nó ở nhà trông con. Thế còn anh?”.
“Một con gái, Megan. Con gái anh làm ở cửa hàng bán khung tranh ngay ở cảng”.
“Ôi, lạy Chúa tôi! Scottie mới đặt làm khung một bức ảnh chụp cụ nó ở cửa hàng ấy. Đó là bức ảnh chụp từ những năm 1930 ở trang trại của gia đình tại Kansas”.
“Vậy là cuộc đời họ đã hơn một lần gặp nhau. Vài năm trước, chị từng tới thị trấn này thăm gia đình; họ có thể chạm trán nhau bất kỳ lúc nào, vậy mà điều đó chưa bao giờ xảy ra.
“Dạo này anh vẫn là Cảnh sát trưởng chứ”, Faith nói.
“Ừ, vịnh Cedar lúc nào cũng là nhà của anh. Anh chưa từng muốn sống ở một nơi nào khác. Quanh đây chẳng còn nhiều bạn cùng lớp của chúng ta nữa”.
“Em đã nghe về cái chết của Dan Sherman”. Faith lại bảo anh. “Tội nghiệp Grace. Scottie đã gọi cho em khi người ta tìm thấy xác anh ta”.
“Đó là một người cục cằn”, Troy nói. Anh biết Dan, nhưng họ chưa bao giờ là bạn thân. “Grace tái hôn rồi - với một chủ trại ngựa ở địa phương. Anh dừng lại. Em sẽ mến Cliff. Anh ấy là một người đàn ông thực tế, không phù phiếm”.
“Thế còn Olivia?”.
Anh nhớ, thời đi học, Faith và Olivia từng là bạn khá tốt của nhau.
“Em luôn cố giữ liên lạc với Olivia, nhưng cuộc sống bận bịu quá”.
“Olivia lấy một người tên là Stan Lockhart khi cô ấy tốt nghiệp cao đẳng.
Năm con trai của họ chết, họ đã ly dị”.
“Em biết cô ấy đã trở thành thẩm phán, nhưng không biết cô ấy lại mất một đứa con và đã từng ly dị”.
“Chuyện xảy ra cách đây hơn hai mươi năm rồi. Em không bao giờ đi họp lớp đúng không?”. Lần nào họp lớp Troy cũng tham dự đầy đủ.
“Không. Thế còn anh?”.
“Rất tiếc là có. Troy cũng muốn tránh, nhưng không thể vì anh sống ở thị trấn này. Và anh lại còn là một trong những cán sự lớp nữa chứ, vì thế mọi người đều muốn anh đứng ra tổ chức. Ngược lại với ý nguyện của mình, anh đã tổ chức hầu hết các buổi họp lớp, chủ yếu là nhờ Sandy và tài tổ chức của chị.
Con gái anh đã giúp anh tổ chức buổi họp gần đây nhất. Anh thì thích ở nhà hơn.
“Em đã làm y tá đúng không?”.
“Vâng...”. Chị nói, rồi tự chỉnh lại. “Tuy nhiên bây giờ em không làm trong ngành nữa. Em bỏ ra ngoài cách đây mười năm rồi”. Chị ngập ngừng như thế không biết nên tiếp tục hay không. Em có viết bài nhưng không nhiều. Em viết báo về sức khỏe, đại loại như vậy”. “Thật chứ? Anh rất ấn tượng về điều này”.
Troy chưa bao giờ có khả năng đưa những suy nghĩ của mình lên mặt báo. Tất nhiên là ngoài những báo cáo cảnh sát và đó chỉ đơn thuần là việc đưa ra những sự kiện, tình tiết một cách rõ ràng.
“Đừng khen em. Em chỉ làm cho vui thôi mà”. Anh có thể tưởng tượng là chị nhún vai. “Em nghĩ đó chỉ là cách dể sử dụng một phần kiến thức y khoa của mình thôi”.
Họ nói chuyện với nhau thêm vài phút nữa, rồi cũng đến lúc hết chuyện để nói. Troy cố nghĩ ra chuyện gì đó để giữ Faith nói thêm. Anh không muốn chấm dứt cuộc điện thoại này. Anh sợ rằng lại mất nửa đời người nữa họ mới có thể được nói chuyện với nhau.
“Dạo này em có hay đến vịnh Cedar không?”.
“Không nhiều. Nhưng Scottie đang giục em chuyển tới thị trấn và em đang cân nhắc”. Chị ngừng lại. Sao anh lại hỏi thế?”.
“Anh đang nghĩ”, anh đáp lại, chuyển tư thế đứng một cách không thoải mái, “rằng chúng ta có thể gặp nhau nếu em đến đây”.
“Được rồi”, chị đáp ngay lập tức.
“Chúng ta có thể uống cà phê và ăn bánh ở Pancake Palace”.
Hồi trước, mỗi lần hẹn hò họ thường tới đó, mặc dù chỉ là uống một chút sô- đa và ăn khoai tây chiên.
“Không phải là sô-đa và khoai tây chiên kiểu Pháp đấy chứ?”.
“Em vẫn nhớ phải không?”, anh hỏi.
“Tất nhiên là em nhớ rồi. Chúng ta thường ăn chung, uống chung mà. Em thích nhiều muối hơn anh”.
“Em có biết khi nào em sẽ tới thị trấn không?”, anh nhấn mạnh.
“Thứ Bảy tuần tới em sẽ tới”, chỉ trả lời, nếu tiện”.
Rất tiện. Thực ra, còn rất tuyệt nữa là khác.