Chương 27: Chương 21 phần 2

Ánh đèn lồng lúc này đã ở rất xa và những đứa đi đằng sau bắt đầu va nhùng nhằng vào nhau. Charlie đang định đổi chỗ cho Olivia thì Billy quay lại và trao cho Charlie một cây đèn cầy thắp sáng.

“Chuyền xuống đi,” Billy thì thào. “Em có tới năm cây.”

Charlie đưa cây nến cho Olivia và bảo, “Chuyển tiếp đi.”

Khi tất cả năm cây nến cháy sáng đã được giơ lên cao thì đường hầm như ngập trong ánh trăng. Nhưng còn hơn cả chiếu sáng, những cây nến mang đến sự an ủi cho bọn trẻ đang lo sợ; không khí dường như trong lành hơn, bước chân chúng hình như nhẹ hơn, và thậm chí dù chúng đã phải đi thêm gần một dặm nữa thì thời gian vẫn trôi qua rất nhanh.

Cuối cùng, cả đám nhô ra một khu rừng đặc kín những cây bu-lô gầy guộc. Thẳng trước mặt chúng có hai bức tường.

“Không được chạy,” ông Onimous ra lệnh. “Bây giờ xin cẩn thận.”

Lối mòn giữa hai bức tường bắt đầu dẫn vào rừng, nhưng đi được vài bước họ đã ra khỏi rừng cây và bước đi dưới bầu trời xanh, nổi vân vài đám mây chiều.

“Hoàng hôn,” Charlie lẩm bẩm một mình.

Tất cả mọi người lại rơi vào im lặng. Âm thanh duy nhất là tiếng bước chân dội âm âm xuống đất, nện trên lối đi lát đá cổ xưa. Khi cả đám bắt đầu đi vòng vèo qua những ngóc ngách hình ốc sên, tim Charlie đập loạn đến nỗi nó phải đè tay lên ngực. Bên cạnh nó, Emma giục, “nhanh lên.”

Và rồi thì tất cả đã đến nơi.

Hoàng hậu đang đứng đợi bên cạnh cái cây. Bà hí lên khẽ khàng và bước nhẹ về phía đoàn người, ngẩng cao đầu lên chào đón. Sau đó bà bước đi khỏi và để mọi người lại với nhà vua.

Cả đám đứng trước một cái cây ngất, sừng sững như ngọn tháp; những đôi mắt mở to và những gương mặt ngửa hẳn ra sau, nhưng không một tiếng nói.Chúng đã nhìn thấy những dòng chất sậm màu chảy xuống thân cây, và theo bản năng, tất cả tiến lại gần hơn.

Charlie đã thuộc lòng từng chữ trong câu thần chú. Nó nắm tay Naren và bắt đầu lẩm bẩm lời thần chú. Những người khác nối vòng tay lại nhưng tất cả đều phải cúi rạt xuống bên dưới những tán cành đu đưa xào xạc mới có thể tạp thành một vồng tròn không đứt.

“Ba lần,” Charlie thì thào. “Hãy chạy quanh nhà vua, chạy quanh, chạy quanh cho tới khi nước mắt ngài khô đi.”

Chúng vây quanh cái cây, với vẻ mặt rất nghiêm trang, tất cả đều nhìn đau đáu vào những giọt nước mắt đỏ như máu.

Một lần, hai lần, ba lần. Chạy quanh, chạy quanh cái cây. Khi đã hoàn thành cả ba vòng, Charlie kéo mạnh tay Billy và chạy nhanh hơn nữa.

“Chúng ta chạy ba lần rồi mà,” Billy nói.

“Cứ chạy nữa,” Charlie tuyệt vọng hối.

Nước mắt nhà vua càng sậm lại hơn bao giờ hết, nhưng Charlie không bỏ cuộc. Cả đám quay tít quanh cái cây cho đến khi bắt đầu chóng mặt. Và rồi, với đôi mắt ngấn nước, ông Onimuos buông vòng tròn ra, hét lên, “Không xong rồi, bọn nhỏ. Đó là vì ta. Ta là kẻ phá bĩnh. Làm gì có ai tin ta chưa đến hai mươi tuổi cơ chứ? Bất cứ ai làm ra câu thần chú này đều ngụ ý rằng từng từ của nó phải được tuân thủ.”

Bọn trẻ nhìn trân trối vào khoảng trống giữa Olivia và Emma, tuy rằng không đứa nào bỏ vòng. Chúng đứng bên dưới cái cây trong khi ông Onimuos vục đầu vào tay khóc nức nở, và bầu trời dần dần ken đặc những đám mây đen. Trời ập tối dưới bóng những tán cây xòe rộng, tối đến nỗi chúng gần như không trông thấy mặt nhau. Nhưng có gì đó cứ giữ chúng đứng chôn chân tại chỗ.

Đám cỏ cao ở rìa trảng trống bỗng lay động và run rẩy, mặc dù không có gió. Có cái gì đó bò ra khỏi cỏ và đứng lên.

“Con thú,” ông Onimuos la lên, giọng ông hơi hốt hoảng.

“Asa,” Charlie nói trong hơi thở.

Hướng về phía vòng tròn, một sinh vật lờ mờ , lưng gù, gớm guốc. Không đứa nào cục cựa. Con thú bước vào chỗ trống giữa hai đứa con gái, và Emma, với trái tim tọt lên tận cổ họng, đặt bàn tay lên đầu con thú. Olivia trố mắt nhìn Emma, á khẩu, cũng làm tương tự.

Những đứa khác nhìn chết trân khi con thú cho phép hai đứa con gái luồn ngón tay vào mớ lông dài, cứng quèo của nó.Vòng tròn một lần nữa lại được khép kín.

Không nói một lời, vòng tròn những đứa trẻ bắt đầu chuyển động, và con thú cùng di chuyển với chúng. Vòng quanh, vòng quanh nhà vua, vòng quanh, vòng quanh.

Mắt Charlie gắn chặt vào thân cây sứt sẹo. Dòng nước mắt đỏ như máu chảy nhanh hơn; chúng tuôn chảy xuông đất ẩm ướt, và rồi trôi đi thành những dòng nước nhỏ, sáng lấp lánh.

Những đứa trẻ bắt đầu vòng thứ hai. Lớp vỏ cây xám ngập chìm trong những dòng nước sậm màu và một cái hồ bắt đầu được hình thành ở dưới gốc cây.

Vòng quanh, vòng quanh nhà vua, vòng quanh, vòng quanh.

Chúng bắt đầu đi vòng thứ ba. Và lần này Charlie cố dứt ánh mắt ra khỏi dòng nước mắt kinh khủng. Chúng không dừng lại đâu, chúng sẽ vĩnh viễn không dừng lại, Charlie nghĩ, ngay cả khi vòng tròn trẻ đã ngập đầu gối trong hồ nước màu đỏ bầm.

Nước mắt bây giờ chảy nhanh đến nỗi không khí rung động và những cành cây phải thở dài. Làn gió nhẹ bắt đầu trở nên hung bạo và quất vào mặt những đứa trẻ, rúc vào tóc chúng và thổi phồng áp quần mùa đông của chúng. Rồi một làn gió lạnh, thanh thoát, sung sướng mê ly nghe như khúc nhạc cổ xưa.

“Nhìn kìa, Charlie! Nhìn kìa!” Billy hét lên.

Charlie sợ quá không dám nhìn. Một hạt nước lạnh bắn vào mặt nó.

“Nhìn kìa! Nhìn kìa! Nhìn kìa!” Những giọng khác hòa cùng giọng Billy.

Charlie đưa mắt nhìn lại cái cây. Mưa đổ qua cành lá và chạy dọc xuống thân cây. Những vết sẹo sâu hoắm, được nước mắt rửa thành trong trẻo, giờ là một lớp nước sạch đóng băng trắng toát.

Những bàn tay của bọn trẻ rớt thõng xuống hông. Chúng ngẩng đầu nhìn lên tàng cây và gió phủ đầy mặt nước một trận mưa lá vàng và đỏ. Vỏ cây được rửa sạch ánh lên màu xám của ngọc trai, trong khi gió mang bộ áo thụng mùa thu của nhà vua ra đi. Đám lá lướt bay trên không trung như những ngọn lửa nhảy múa, vượt khỏi những bức tường lâu đài, qua dòng sông, qua những ngôi nhà, khiến những đám mây đỏ và vàng che phủ toàn thành phố: những mái nhà, những vườn cây, những con hẻm và đường phố, ngay giữa mùa đông mà trải dày một lớp thảm lá mùa thu.

Trong một căn hộ sang trọng của cửa hàng Vương Quốc, cô Amy Bone kinh hãi nhìn vào ngón tay mình. Cô mở tung cửa sổ, tháo chiếc nhẫn ngọc lục bảo ra và quăng nó lên trời.

“Khôôông!” Tên thầy bùa rú lên. Nhưng một đám mây lá đỏ rực đã bay ùa vào phòng và quét hắn ra khỏi cửa sổ – như một trái banh màu xanh lá cây bị những lưỡi lửa đỏ rực liếm rụi.

Cô Amy thở hổn hển trước cảnh tượng đó, vội đóng ập cửa sổ lại và hấp tấp rời khỏi cửa hàng.

Tại nhà số 9 đường Filbert, bà Maisie Jones, với đầy đủ quần áo, ngồi bật dậy trong bồn tắm. Một con bướm có đôi cánh bạc đậu trên đầu gối bà.

“Trời ơi!” Ngoại Maise nói với con bướm trắng. “Ai để cửa sổ mở thế này?” Bởi vì người bà phủ đầy những lá.

Lá cũng tìm ra đường để vào Học viện Bloor. Nương theo những cơn gió hoang dại, chúng buộc cánh cửa đôi đồ sộ mở ra và tràn vào vào tiền sảnh. Chúng cuồn cuộn thốc lên những cầu thang cổ xưa, băng qua những hành lang, đập vào những bức tường, luồn qua những khe nứt và lướt xuống dưới những khe cửa.

“Ngăn chúng lại! Ngăn chúng lại!” Lão Ezekiel rú lên khi cố đẩy cái xe lăn đi ngược dòng thủy triều lá.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?” Tiến sĩ Bloor hớt hải hỏi, nhìn vào con trai mình.

“Làm sao tôi biết? Tốt hơn chúng ta ai ở đâu hãy ở yên đấy.” Manfred giật chiếc xe lăn của lão Ezekiel lại, đẩy lão vào thư phòng của tiến sĩ Bloor và khóa chốt cửa lại. “Giờ thì chúng đừng hòng bắt được chúng ta.” Rồi hắn xoa hai tay vào nhau cho đến khi những tia lửa tóe ra.

Trên đỉnh Tháp Nhạc, thầy Pilgrim nhìn lá múa may như những đốm lửa bay bên ngoài cửa sổ phòng thầy. Những cái tên bất giác bật ra trong đầu thầy. Thầy cố ghi nhớ lấy chúng. Thầy cảm thấy mình đang bơi qua một dòng nước đen, sâu thật sâu. Thầy trông thấy một gương mặt. Và gương mặt đó trôi đi.

Bên ngoài quán Cà Phê Thú Kiểng, những bậc phụ huynh và con cái họ đã tụ tập ngoài trời để ngắm dòng thác lá đỏ qua bầu trời.

Ông Bartholodew Bloor đang định cùng gia đình ra về thì Charlie níu tay ông. “xin cảm ơn, ông Bloor,” nó nói, “chính câu thần chú trong những quyển sổ nhật kí của ông đã làm nên điều đó đấy.”

“Điều gì, Charlie?” Nhà thám hiểm hỏi. “Tốt hơn cháu hãy đợi xem chuyện gì xảy ra đã rồi hẵng cảm ơn ta.”

“Vâng ạ.Nhưng dù sao cũng chúc ông ngủ ngon.”

Lần này đến lượt ông Bartholodew mỉm cười, “Chúc ngủ ngon, Charlie.”

Khi ông sải bước đi khỏi, Naren quay đầu lại và vẫy tay với Charlie, “Ba không xấu đâu nhỉ,” cô bé nói. “Hẹn gặp lại anh, Charlie Bone!”

Những gia đình khác cũng vội vã cáo từ, con cái họ vẫn còn đang hưng phấn, cha mẹ chúng hài lòng, nhưng họ nóng lòng mong cho cuộc sống mau trở lại bình thường. Một sứ mạng vừa được hoàn thành, một ước muốn vừa được thực hiện, nhưng cho đến khi Charlie Bone về nhà, vẫn chưa ai biết kết cục thế nào.

Hứa hẹn sẽ gọi điện cho từng đứa bạn để báo tin lành hay tin dữ, Charlie và Ông cậu Paton lên đường về nhà số 9.

Ngay khi nhìn thấy những ngọn nến thắp sáng ở bậu cửa sổ nhà bếp, họ biết đã diễn ra một sự thay đổi. Nội Bone không đời nào lại chu đáo như thế. Charlie chạy ù lên những bậc cấp, Ông cậu nó sải bước ngay đằng sau.

Họ thấy cô Amy và ngoại Maise đang thưởng thức tách trà ngon.

“Con đi đâu vậy?” Mẹ Charlie ôm chặt lấy nó. “Con làm mẹ lo quá.”

Nó không hỏi mẹ nó đi đâu. Nó biết mẹ không bao giờ có thể trả lời được. “Gặp lại mẹ con mừng quá,” nó thì thào.

“Ta chả biết có gì xảy ra với thời tiết thế không biết.” ngoại Maisie chép miệng. “Nhưng ta cảm thấy khó chịu kinh khủng. Ở đây nóng quá đi.”

“NÓNG gì mà nóng!” Nội Bone quát ra từ hành lang. “Lạnh thấu xương thấu tủy. Chết tiệt. Ai đó nói cho bà kia biết rằng bà ta điên rồi đi.”

“Đừng có mơ, Grizelda,” Ông cậu Paton nói. “Tôi thì thấy trời như đang sôi lên đây này.”

Nhà bếp rộ lên tiếng cười vui vẻ, trong khi nội Bone lạch bạch về phòng khách và đóng sầm cửa lại.

Ngoại Maisie đã xoay xở làm xong một cái bánh xốp nhân mứt thật to – quả là một kì công đối với người mà mới một giờ trước thân nhiệt đã tụt xuống dưới điểm đông.

Bốn người ngồi xuống dùng bữa trà gia đình y như thường lệ, và sau đó khi Ông cậu Paton phán đoán đã đến thời điểm thích hợp, ông cầm lấy bàn tay cô Amy và nói rất khẽ, “Amy, chúng tôi đã tìm ra chồng cô rồi.”

“Lyell à?” Bàn tay cô Amy áp chặt vào tim. “Làm sao được?”

Với sự giúp đỡ của Charlie, Ông cậu Paton kể cho cô nghe tất cả mọi điều mà ông nghĩ là cô nên biết. Lyell đã bị Manfred Bloor thôi miên ra sao, vào lúc quyền phép của hắn đang ở đỉnh điểm, thời hắn còn là một đứa trẻ. Và Charlie đã tìm thấy cha mình nhờ sự giúp đỡ của Gương Thần của Amoret như thế nào. Tên thầy bùa không được Charlie và Ông cậu Paton nhắc tới, và hiện tại, họ nghĩ tốt nhất cũng không nên nhắc lại việc ngoại Maisie bị đông cứng.

“Anh ấy sẽ hồi tỉnh à?” Cô Amy hỏi. “Chúng ta sẽ làm gì?”

“Tôi nghĩ anh ấy sắp hồi tỉnh rồi,” Ông cậu Paton nghiêm nghị. “Nhưng cần phải làm một số việc. Dẫu sao cũng mười năm rồi còn gì.”

Cô Amy đứng lên, “Tôi phải đi tìm anh ấy, ngay bây giờ.”

‘Không được,” Ông cậu ngăn lại. “Chưa đâu. Lyell bị thôi miên vào lúc chuông điểm mười hai giờ. Chúng ta phải chờ cho đến gần nửa đêm. Đồng hồ nhà thờ lớn sẽ giúp chúng ta đánh thức anh ấy. Nhưng còn việc nữa,” ông quay sang Charlie và hỏi nhỏ, “Nước mắt nhà vua đâu?”

“Con có đây,” Charlie nói.

“Và cô Amy này,” Ông cậu Paton cầm bàn tay trái của cô. “Tôi yêu cầu cô đeo nhẫn của cô vào được không?”

Cô Amy trợn tròn mắt nhìn vào bàn tay trống trơn của mình. “Làm thế nào lại tuột mất vậy?” Cô đâm bổ lên lầu.

Vào lúc mười một giờ mười phút, nội Bone đang ngáy pho pho trước màn hình ti vi thì tiếng động trong hành lang đánh thức bà ta dậy. Bà thấy cô Amy và Charlie đi giày bốt và khoác áo ấm vào. Trời lại bắt đầu đổ tuyết.

“Hai đứa bay đi đâu vào giờ này?” Nột Bone hỏi trịch thượng.

Ông cậu Paton đi ra khỏi bếp và nói, “Chúng tôi đã tìm thấy con trai bà, Grizelda à.”

Nội Bone thốt lên một tiếng kêu nghẹt ứ và nhìn chưng hửng vào Ông cậu Paton, khiếp vía. Miệng bà ta há xệ ra và bà bấu chặt lấy khung cửa.

Ông cậu Paton đi lại gần nội Bone, “Bà giấu anh ấy khỏi chúng tôi rất khéo. Trò lừa quá ranh ma đã giữ anh ta ở ngay trước mũi chúng tôi. Hừ, bây giờ chúng tôi biết anh ấy ở đâu rồi, và cô Amy và Charlie sẽ đến để đưa anh ấy về nhà.”

Nội Bone lùi lại và ngã phịch vào một cái ghế. “Thế à,” bà ta lẩm bẩm.