“Đến khi nào tao đến kiếm tụi bay,” Manfred phán.
Không có chuyện tranh cãi ở đây. Charlie và Billy lần chần lui lại cầu thang, ở đó chúng nhìn xuống đám đông lố nhố các ông bà hiệu trưởng. Một số người vẫn đang khoe tài phép. Charlie trông thấy một con lừa và một con gấu, và chứng kiến một con đà điểu châu Phi biến thành một bà váy xoè màu vàng. Một ông bận áo khoác đen biến mất vào không khí, và rồi thì có một con thằn lằn khổng lồ treo tòn teng trên xà nhà.
Charlie và Billy cẩn thận đi xuống tiền sảnh. Xuống đến nơi rồi, chúng phải luồn lách qua biển người tụ tập nói liên tu bất tận. Không luật nào bắt họ im lặng được, Charlie nhận thấy như vậy. Chả ai để ý tới hai thằng bé đang vất vả tìm đường đến những phòng để áo khoác, cho tới khi chúng chạm mặt người đàn ông đội khăn xếp xanh da trời.
“À hả, chúng ta lại gặp nhau,” ông Khăn Xanh mỉm cười phóng khoáng. Ông đặt một ngón tay lên môi và nháy mắt với Charlie, “Chúc may mắn!”
Một phụ nữ phốp pháp xô Charlie qua bên, và khi nó trấn tĩnh lại thì người đàn ông đội khăn xếp xanh da trời đã mất hút vào đám đông.
“Ai đó?” Billy hỏi khi chúng đã an toàn bên trong phòng để áo khoác xanh da trời.
“Ông ấy trông thấy anh ở dưới gầm bàn tối qua. Nhưng ông ấy không chỉ điểm anh,” Charlie mặc áo khoác và mang giầy bốt vào.
“Vậy không phải tất cả bọn họ đều xấu. Trông ông ấy không giống một vị hiệu trưởng nhỉ?” Billy ngồi xuống băng ghế để cởi giày ra.
“Ông ấy là người nước ngoài,” Charlie chỉ ra. “Có lẽ ở xứ ông ấy hiệu trưởng là như vậy.”
Vừa ra đến bên ngoài là Charlie hướng ngay tới khu đổ nát. Cỏ đẫm sương rào rạo dưới chân chúng và một màn sương giá giăng là là mặt đất. Mái cửa vòm đồ sộ màu đỏ của khu đổ nát hầu như không thấy đâu.
Billy lết bết đằng sau Charlie, hy vọng bên trong khu đổ nát sẽ ấm hơn. Nó không nhận ra Charlie có một mục đích khác hẳn.
“Vụ gì thế này?” Billy bước vào cái sân lam nham và ngó sững vào những viên đá phiến bị vỡ.
“Cô ta đã tìm kiếm cái gương thần và đấy là nơi cô ta đã tìm ra nó,” Charlie chỉ khối đất đen xì hình vuông. “Cô Chrystal, cô giáo mà tất cả tụi mình đều nghĩ là tốt nhất và tử tế nhất trường.”
“Té ra cô ta là kẻ xấu nhất,” Billy nói.
“Một mụ phù thuỷ,” Charlie thêm. “Anh phải cảnh báo cho những người khác biết ngay, nhưng chúng ta không được để cho cô ta biết bọn mình đã biết cô ta.”
“Thế thì ta phải cảnh giác,” Billy đồng tình.
Chúng quờ quạng đi xuống một trong năm lối đi tối mù dẫn ra khỏi sân. Ở cuối lối đi mở ra một khoảnh cỏ rộng, cây cối và những bức tường dày đổ nát bao quanh. Bọn chúng ngồi lên một bức tường và Charlie chà sát hai bàn tay lạnh cóng vào nhau, nghĩ về ông Bartholomew Bloor. “Vua Đỏ vẫn còn trong lâu đài” – nhà thám hiểm đã nói như vậy – “nhưng ngài bị che khuất”.
“Vậy ngài ở đâu?” Charlie buột miệng, gần như tự nói với mình.
“Ai ở đâu?” Billy hỏi.
“Vua Đỏ. Chúng ta cần ngài, Billy à.”
Một cơn gió lạnh thốc vào mặt chúng và những cành cây trụi lá kêu lắc rắc trên đầu. Một cành khô gãy, rồi lại một cành khác. Charlie hoảng hốt quay phắt đầu lại, tưởng bắt gặp Asa trong bộ dạng thú của hắn xồ ra khỏi bụi rậm. Nhưng không phải Asa. Đứng im lìm, bên dưới một cây to, Charlie thấy một con ngựa trắng.
“Hoàng hậu đó,” Charlie khẽ khàng.
Hai thằng tuột khỏi bức tường và hoàng hậu đi nước kiệu về phía chúng.
“Đúng bà rồi, đúng thật bà rồi,” Charlie vừa nói vừa vuốt ve vòng cổ mềm như lụa.
Billy ậm ậm ừ ừ và hí lên, và thế là hoàng hậu hạ thấp đầu xuống để nghe cho rõ hơn những tiếng ngâm nga và khụt khịt kỳ dị từ Billy phát ra như những cái hắt xì. Bà đáp lại theo cách của bà, bằng vài tràng hí dài.
Charlie, nóng lòng quá, đòi Billy cho biết hoàng hậu đang nói gì.
“Em hỏi bà nhà vua có ở đây không,” Billy nói, “và bà bảo ngài ở rất sâu, sâu bên trong lâu đài của ngài. Em hỏi bà làm sao chúng ta có thể đến chỗ ngài, bà bảo với em rằng khi thời điểm đến ắt sẽ tìm thấy ngài.”
“Thế thôi à?” Charlie thất vọng. “Nhưng khi nào thì thời điểm đến.”
Con ngựa trắng sục mõm vào tai Charlie, và Charlie quàng cánh tay lên cái bờm dài của ngựa. Ngựa âu yếm dụi đầu dụi mặt cả hai đứa, và rồi bất thình lình, ngựa ngó lên trời.
Có tiếng rung chuyển trong không trung, ghê rợn đến nỗi không thể là sấm. Âm thanh đó kéo theo một bầu trời đen kịt; tựa như tấm màn nặng chịch che ụp xuống mặt đất.
Trong ánh sáng âm u, đôi mắt của hoàng hậu trợn trắng lên kinh hãi. Bà thét lên một tiếng, quay đầu và phóng nước đại đi khỏi, tiếng móng guốc nện lộp cộp của bà càng lúc càng xa thì tiếng gầm trên trời càng lúc càng buốt óc.
Charlie và Billy vắt giò chạy trối chết ra khỏi khu đổ nát, bàn chân chúng lượt trượt, líu quíu hướng về nơi trú ẩn trong trường.
“Đó là tiếng gì vậy?” Billy thở hồng hộc. “Động đất hả?”
“Chắc ngày tận thế,” Charlie hét to.
Chúng nhào tới cánh cửa vào trường thì thấy nó đã bị khoá. Charlie dộng thình thình vào khối gỗ sồi vững chắc cho đến khi, mãi cuối cùng, cánh cửa xịch mở và Manfred ngó xuống bọn chúng.
“Tí sấm đó mà cũng sợ à?” Manfred châm chọc đầy khinh miệt.
“Không phải sấm,” Charlie hổn hển. “Nó là… là… Làm ơn cho chúng em vào đi?”
“Mày phiền phức quá, Charlie Bone, nhưng, ờ, thôi được, về phòng ngủ chung của tụi bay mau,” Manfred nhích qua một bên và hai thằng bé xông vào tiền sảnh. Lúc này tiền sảnh vắng tanh vắng ngắt, các vị hiệu trưởng đã toả vào các lớp học khác nhau.
“Đó không phải là sấm, thưa ngài,” Billy nói.
“Ta tự hỏi thế thì nó là cái gì,” Manfred dường như đã biết câu trả lời nhưng không muốn tiết lộ cho bọn nhóc biết.
“Khi nào thì tới Dạ Vũ, thưa ngài?” Billy hỏi, cảm thấy can đảm hơn vì đã ở bên trong toà nhà.
“Khách khứa sẽ tới vào lúc bảy giờ rưỡi, và tốt hơn mày hãy tránh xa ra, Billy Raven. Sẽ có năm trăm người đi qua cánh cửa này của chúng ta đêm nay.”
“Năm trăm!” Charlie kêu lên.
“Dịp mười năm một lần mà,” Manfred khoe khoang, “Ông thị trưởng sẽ đến đây, và toàn thể hội đồng thành phố nữa. Có ba thẩm phán, một công tước và công nương, rồi chủ mọi doanh nghiệp lớn của thành phố, một giám mụ, những vị chủ tịch, giám đốc, rồi tổng… không phải tổng thống Mỹ [1] đâu,” Manfred nói tới đâu miệng Charlie trễ xệ xuống tới đó, “ý ta muốn nói đến các tổng giám đốc công ty.”
[1] Nguyên văn: “president” vừa là chủ tịch công ty, vừa là tổng thống. Manfred nhắc tới “president”, liền nói lại cho rõ hơn là không phải tổng thống Mỹ. (ND)
“Phù!” Charlie đành kinh ngạc một cách bất đắc dĩ.
Manfred mỉm cười hài lòng, “Tụi bay có muốn xem phòng dạ vũ không?” Hắn đề nghị.
Hai thằng bé thắc mắc không biết có gì nảy ra trong đầu hắn vậy. Manfred vốn thường không thân thiện thế này. Có lẽ tại hắn không cưỡng nổi ý muốn phô trương.
Billy nói, “Dạ muốn” trước khi Manfred kịp đổi ý.
“Theo ta.” Manfred mở khoá cánh cửa nhỏ dẫn lên Tháp Nhạc. Khi cánh cửa vừa bung ra, Charlie choáng ngợp trước khung cảnh hành lang lù mà lù mù ngày thường đã biến đổi hoàn toàn nhờ lớp thảm dày trải dưới sàn và mái trần nhấp nháy những vì sao.
Hồi nào tới giờ nó đâu có để ý đến cánh cửa đôi dẫn vào phòng dạ vũ. Giờ đây, cánh cửa vòm bừng sáng lên lấp lánh, trở lại vẻ huy hoàng trước kia của mình. Manfred hẩy nhẹ cánh cửa một cái, mở ra một căn phòng lộng lẫy đến độ Charlie nín cả thở.
“Tụi bay nghĩ sao, hả?” Chính Manfred dường như cũng nghẹt thở. Hắn bật công tắc điện và bốn chùm đèn pha lê đột ngột sống dậy, bừng lên một quầng sáng vỡ oà. Treo lơ lửng từ trần nhà xuống, chúng được tô điểm bằng những tạo vật bằng thạch cao. Không phải những tạo vật có thật trong đời thường, mà là những quái vật: yêu tinh, thần lùn, người khổng lồ, dơi nanh dài, quỷ đuôi chĩa ba, yêu quái và các loài rồng trông gớm ghiếc.
Charlie ráng tìm ra vài lời để nói, nhưng cuối cùng lại là Billy thốt lên, “Dễ sợ quá!”
Sàn nhà sáng loáng dốc dần lên tới một sân khấu đặt cây đàn piano to đùng ở một góc và nhiều giá nhạc ở góc kia. Charlie tưởng tượng ra một phòng dạ vũ nghẹt cứng những thân hình lay động, xiêm y xúng xính, loè xoè, bắt ánh sáng đèn chùm loá choá.
“Hay chứ nhỉ?” Manfred tắt đèn và xô mạnh bọn nhỏ ra ngoài.
“Dạ, hay!” Chúng đồng ý.
Trong khi cả bọn từ phòng dạ vũ bước đi khỏi, bỗng có tiếng bước chân nhẹ thật nhẹ làm tất cả quay đầu lại. Thầy giáo dạy piano, thầy Pilgrim, hiện ra ở đầu kia hành lang. Charlie sửng sốt khi thấy thầy. Nó tưởng thầy Pilgrim đã rời trường rồi chứ.
“Chào thầy Pilgrim à,” nó lên tiếng.
“Chào em, em là…” ông thầy giáo lộ vẻ bối rối.
“Tôi đề nghị ông về lại phòng nhạc, ông Pilgrim,” Manfred hống hách.
“Tôi nghĩ…”
“Bà bếp trưởng sẽ mang đồ ăn cho ông.”
“Tôi không đói,” thầy Pilgrim hoang mang, lập chập gạt một túm tóc đen ra khỏi gương mặt tái xanh của mình.
“Tùy ông. Đi đi, các trò,” Manfred xua hai thằng nhỏ xuống hành lang. Khi tất cả xuống tới tiền sảnh rồi, hắn khoá cánh cửa cổ xưa sau lưng lại.
“Thầy nhốt thầy Pilgrim ngoài đó rồi,” Charlie nói.
“Trong chứ,” Manfred chỉnh lại. “Khoá lão trong ấy là để tốt cho lão. Lão không thể chịu nổi đám đông mà.” Hắn hếch cái cổ gầy ngẳng ra và trừng trừng nhìn Charlie. “Cởi áo khoác ra rồi về phòng ngủ chung của mày ngay.”
Charlie không sợ đôi mắt thôi miên đen thùi của Manfred. Nó táo tợn nhìn trở lại và chính Manfred là kẻ phải quay mặt đi. Hắn đã mất quyền phép, Charlie nghĩ. Nhưng bây giờ có cái gì đó khang khác… Đó là cái gì nhỉ?
Manfred thọc hai tay vào túi quần và hùng hục bước đi khỏi.
Trở về phòng ngủ chung, Charlie và Billy ngồi trên giường và chờ đợi. Bụng chúng bắt đầu sôi ục ục. Còn cả tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ ăn trưa. Charlie không nghĩ mình có thể cầm cự được chút nào nữa nếu không có miếng gì ăn đỡ. Nó vừa quyết định tới chỗ bà bếp trưởng thì kẻ đưa tin của bà xuất hiện.
Mấy tiếng chó sủa bên ngoài cửa thông báo May Phúc tới.
“Đồ ăn!” Billy bay chíu khỏi giường. “May Phúc nói đã có thức ăn ở căn-tin.” Nó mở cửa và vỗ vỗ cái đầu nhăn nhúm của con chó già. “Cảm ơn nha, May Phúc.”
Trong căn-tin, hai đứa thấy một đống bánh mì kẹp để sẵn trên bàn. Chúng nghe thấy tiếng bà bếp trưởng ra lệnh trong nhà bếp. Xem ra nơi này lại đang náo động rung chuyển lần nữa, với hơn một trăm suất ăn trưa đặc sản cần chuẩn bị để dọn vào phòng ăn. Khi Charlie và Billy ăn xong phần bánh của mình, chúng dòm vào nhà bếp, hy vọng ít nhất cũng sẽ được một cái bánh bích quy sô-cô-la.
“Trong trạn kia kìa,” bà bếp trưởng chỉ tay nói. Mặt bà đỏ phừng phừng, chiếc tạp dề lem luốc những vệt vàng và nâu. “À này, Charlie, con lấy giỏ xách rồi ra cửa chính vào lúc mười hai rưỡi nhé. Ông cậu của con sẽ đến đón con đấy.”
“Ông cậu Paton? Sao ông ấy đi được. Ông ấy không bao giờ…”
“Không được cũng phải được thôi,” bà bếp trưởng thở phù phù. “Chả ai rảnh mà đi cả. Ta nghe báo là tất cả đã thu xếp xong rồi. Nào, đi đi!”
Chộp vội mấy thanh sô-cô-la của mình xong, hai thằng bé lủi ra. Charlie nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Mười hai giờ hai mươi. Nó còn mười phút để gói ghém đồ đạc và đi ra cổng chính.
“Em có chắc là em không muốn về với anh không?” Charlie hỏi khi chúng chạy lên tới phòng ngủ chung.
“Em muốn xem những quý bà diện đầm dạ hội,” Billy nói. “Để sau đó còn kể lại cho tất cả các anh chị nghe.” Thằng nhỏ không nói thêm rằng nó còn muốn tưởng tượng một trong những quý bà khiêu vũ xinh đẹp đó là mẹ nó.
Lão Weedon đang chờ ở tiền sảnh khi Charlie ôm giỏ xách chạy rầm rầm xuống cầu thang. Còn đúng một phút nữa để ra tới cổng.
“Suýt nữa thì không xong hả, Charlie Bone?” Lão Weedon có kiểu nói kháy khiến Charlie lúc nào cũng muốn độp lại câu gì đó vô lễ. Nhưng nó hơi chợn cái lão tạp vụ đầu trọc râu ria xồm xoàm này. Nếu bây giờ mà nói gì đó hớ hênh thì coi chừng lão Weedon nhốt nó vào phòng chứa đồ, hoặc tệ hơn nữa.
“Cảm ơn,” Charlie rặn ra nói khi lão tạp vụ to bè rút những cái chốt và mở khoá cửa ra.
“Cửa chưa mở hay sao ấy nhỉ?” Lão Weedon trêu chọc.
“Chưa, thưa ngài.”
Lão Weedon mở hi hí một cánh cửa. Charlie thót mình lách qua khoảng hở tí ti ấy và chạy băng qua mảnh sân gạch. Nó nhảy tưng tưng từ cầu thang xuống quảng trường rải sỏi, suýt nữa thì ngã chúi nhủi ở bậc thang cuối cùng. Nó quá sung sướng khi thấy chiếc xe hơi của Ông cậu Paton đậu ở đầu quảng trường.
Ông cậu Paton không nghe thấy tiếng gọi hồ hởi của Charlie. Ông đeo kính râm và đang mê mải thả hồn vào tờ báo đặt trên đùi.
“Ông cậu Paton!” Charlie giật mạnh cánh cửa xe và chui tọt vào ghế, “Con đây.”
Ông cậu Paton nhìn lên. “À, đây rồi,” ông mỉm với Charlie một nụ cười mờ nhạt.
“Mọi thứ đều ổn chứ ạ? Ý con là ngoại Maisie. Ngọai có còn… còn… ?”
“Không có gì thay đổi, ta e là vậy,” Ông cậu Paton thở dài.
“Con xin lỗi làm ông phải đi ra ngoài vào ban ngày. Ông đã gây ra tai nạn nào chưa?”
“Đến giờ thì chưa,” Ông cậu Paton rồ máy. Ông dường như đang ở tận đẩu tận đâu.
“Ông có khỏe không, Ông cậu?” Charlie hỏi.
“Ta á? Ừ, khỏe. Chỉ là… ờ, ta lo lắng cho mẹ mày đó, Charlie.”
“Sao ạ?” Charlie hoảng hồn.
“Mẹ mày sẽ đi dự Đại Dạ Vũ.”
“Mẹ?” Charlie không thể tin nổi. “Làm sao mà được? Họ đời nào cho mẹ con đi. Mà đi với ai? Mẹ con ấy hả? Không đời nào?”
“Hờ, có thể chứ.” Ông cậu Paton dận bàn chân xuống và họ chồm lên con đường sỏi, phóng ra khỏi quảng trường.