Cuộc chiến của những kẻ có phép thuật
“Trò chạy đâu vậy, hả?” thầy Paltry gọi khi Gabriel đi ngang qua hành lang. “Trò phải ở trong phòng ngủ chung mới phải chứ.”
Gabriel tảng lờ ông thầy. Cậu vọt qua một ngưỡng cửa, lên cầu thang, và lao dọc theo hành lang dẫn đến phòng Nhà Vua. Khi Gabriel xộc vô, trong phòng chỉ có hai người: Lysander và Tancred. Cả hai đang đọc sách.
“Charlie Bone vẫn còn ở trong khu vường hoang!” Gabriel thông báo.
Lysander và Tancred cùng ngẩng đầu lên.
“Manfred và Zelda cũng ở đó,” Gabriel tiếp.
“Và cả Asa chứ?” Lysander hỏi.
“Mình nghĩ nó đã đổi lốt rồi,” Gabriel nói. “Chắc nó cũng vô đó thôi.”
“Vậy là đã đến lúc,” Lysander tuyên bố.
Chúng hợp thành một bộ ba kì lạ: một thằng bé châu Phi, một thằng tóc vàng như bị nhiễm điện, và một thằng gầy trơ xương, mặt dài, nghiêm nghị. Dàn hàng ngang, chúng hùng dũng bước qua giáo sư Bloor, đang khoá cửa văn phòng của mình; ngang qua giáo sư Saltweather, đang khiêng một cái giá nhạc; qua mặt thầy Paltry, đang thu dọn đèn lồng. Không ông thầy nào có thể ngăn được chúng.
Ba thằng bé dấn thân vô màn đêm giá lạnh, nện gót trên mặt đất đóng băng, hướng về phía khu vườn hoang.
Đằng sau chúng, bọn trẻ đã tụ tập nơi các cửa sổ dài của phòng triển lãm. Tối hôm đó, sự bất tuân có ở khắp nơi nơi. Olivia Vertigo đã loan tin: một cậu bé bị kẹt trong khu bỏ hoang. Bất chấp những nội quy và mệnh lệnh của bà giám thị, bọn trẻ vẫn tụt khỏi giường, và chạy băng xuống những hành lang tối thui, nháo nhác thì thầm với nhau.
Fidelio đứng bên Olivia cạnh cửa sổ.
“Anh có cảm thấy gì không?” nó hỏi.
Một cơn gió rít lên chìn chịt. Cơn gió quấn quanh ba bóng người đang rầm rập nhắm thẳng tới những bức tường đá cao nghệu, thốc tung áo chùng của họ vào màn đêm gió lộng. Không ai trong số đó cầm đèn lồng, nhưng Fidelio thấy những đám mây đen bay dạt đi, và rồi, một vầng trăng tròn toả ánh bạc khắp khu vườn.
“Chao! Anh Tancred đó,” Olivia xuýt xoa. “Em đã dò hỏi rồi. Người ta bảo anh Tancred có thể gọi gió, và cả bão nữa.”
“Còn Lysander thì sao?” Fidelio hỏi.
“Không rõ lắm,” Olivia thì thào. “Nhưng anh ấy mạnh mẽ lắm. Nghe đồn anh ấy có thể gọi hồn, nhưng tất cả mọi người đều thừa nhận điểu đó. Asa Pike có thể thay đổi hình dạng, nhưng chỉ trong đêm thôi.”
“Ra là như thế,” Fidelio gật gù.
Nó biết Manfred có thể làm được gì, và nó đã nghe nói là Zelda Dobinski có thể di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ. Nhưng là những loại đồ vật nào? Nó tự hỏi. Liệu con bé ấy có thể di chuyển người ta được không?
Ở sâu trong khu bỏ hoang, Charlie đang co ro nép mình vô một vách tường. Nó tưởng đã thoát khỏi con quái thú, nhưng bây giờ con vật ấy lại đang mò tới gần. Nó nghe thấy tiếng đá lột sột khi con vật lồng lộn quanh cái sân sạt lở.
Charlie loạng choạng đứng dậy. Nó vừa lao về trước được vài bước, thì chợt có cái gì đó vút tới, choán ngang đường nó chạy. Nó hụp xuống và nhận ra những đường viền thô ráp của một pho tượng. Pho tượng này đã suýt giết chết nó. Nó trèo qua pho tượng và thận trọng nhích lên. Có một cái hồ, và tiếng vòi phun đều đặn rót nước vô hồ nghe rào rào. Một gợn nước lớn hất Charlie nhào xuống đất, và đá từ cái vòi phu nứt nẻ đó trút xuống người nó như mưa.
Nó xoay người nằm sấp lại, hai tay ôm chặt lấy đầu.
“Mình sẽ không đầu hàng! Không! Không đời nào!” nó lầm rầm. Nhưng nó có thể cầm cự được bao lâu? Kẻ thù của nó rất mạnh. Có ai đủ uy mãnh để giúp nó không?
Như là câu trả lời, một làn gió nhẹ luồn qua các khóm cây thấp. Cơn gió mạnh dần lên và biến thành cơn cuồng phong, rít rú quanh những hòn đá cổ và gầm thét khắp bầu trời. Gió rung chuyển gác chuông nhà thờ lớn, khiến những hồi chuông ngân lên không ngớt, vang vọng khắp thành phố, như cảnh báo một tai ương gì đó sắp xảy ra. Ngóc nhìn lên, Charlie thấy ông trăng tròn vén mây hiện ra. Ánh trăng ngời chiếu toàn bộ khu đổ nát, soi rọi để tất cả mọi nguy hiểm đều có thể được thấy rõ. Vài tảng đá khổng lồ tự nhiên lăn ra khỏi những bức tường, và Charlie giờ đã có thể bước thẳng qua lỗ trống. Nhưng nó nên đi đường nào bây giờ?
Con quái thú cũng nhìn được đường đi của mình. Nó càng lúc càng điên tiết hơn. Dường như tiếng gầm gừ của nó phát ra từ mọi hốc hẻm, và bất thình lình, nó ở kia, lù lù ngay trước mặt Charlie, chỉ cách vài mét! Cặp mắt nó vàng khè, long lên sòng sọc, và cái mũi tua tủa lông của nó chun ra sau, phô đôi hàm nanh dài, sáng loé.
Charlie đứng đờ ra, chờ cho con quái thú vồ tới, nhưng thốt nhiên, có một vật gì đó nhợt nhạt và ma quái nhẹ nhàng nhảy vô giữa chúng. Charlie nhận ra một ngọn giáo và một cái khiên. Và một bóng người hiện ra, rồi thêm một bóng người nữa. Họ bao vây con quái thú, và con vật bị dồn vô góc tường, tru lên sợ hãi.
Hấp tấp lùi trốn khỏi những hình hài như bóng ma, chân Charlie vấp vô một tảng đá phủ đầy rêu với cỏ, khiến nó ngã dúi sang một bên, và nhào vô một bụi gai. Thấy con mồi của mình nằm bất lực, con quái thú liền xông vô tấn công, nhưng hai lưỡi giáo sáng loáng liền phóng xuống, chặn lại, suýt lạng mất cái mũi đen của nó. Mắt con vật trợn trừng trừng, chĩa thẳng vào Charlie, nhưng không thể đụng được tới thằng bé – con thú sợ và không dám vượt qua những lưỡi giáo lấp lánh kia.
Charlie ráng nhổm dậy, và lập chập bước đi. Gai nhọn đã xé toạc mặt và bàn tay nó. Nó nếm thấy vị máu trên môi và cảm thấy máu đang nhỏ giọt từ những ngón tay. Nó run lên bần bật. Bàn chân tê dại, nó thấy đầu mình nhẹ tênh đến độ gần như không thể suy nghĩ được.
“Mình phải thoát khỏi đây trước khi chết cóng,” nó lẩm bẩm, hàm răng va lập cập vào nhau.
Bỗng nhiên, có cái gì đó âm ấm cọ vô cẳng chân Charlie, nó giật mình nhìn xuống thì thấy con mèo màu đồng Dương Cưu. Con Nhân Mã hiện ra từ phía bên kia, tiếp đến, con Sư Tử nhẹ nhàng nhảy ra từ sau bức tượng phía trước mặt. Mũi con này nối đuôi con kia, lũ mèo bắt đầu vây quanh Charlie, và hơi ấm từ bộ lông rực cháy của chúng thấm vô người Charlie, lan tới tận những khớp xương đau nhức.
Khi Charlie gia tăng nhịp bước, lũ mèo bèn phóng lên phía trước, như một khối lửa dài, dẫn đường cho nó đi qua tòa lâu đài đổ nát.
Dần dần, Charlie phát hiện mình đi ngang qua những bức tượng mà nó đã thấy trước đó, nhiều bức đã đổ sụp xuống đất, nhưng nó vui mừng khi thấy vòi phun nước hình con cá đá vẫn còn nguyên.
Cuối cùng, chúng ra đến mảnh sân có năm cửa vòm. Gió đã lặng, và tiếng chuông xa xa cũng ngừng vang. Ba con mèo nhảy phóc lên ngồi trên một băng ghế đá và bắt đầu tự liếm láp.
“Bọn bay không ra với ta sao?” Charlie hỏi.
Chúng nhìn Charlie và kêu rừ rừ thích thú.
“Cám ơn bọn bay nhé,” Charlie cảm kích.
Từ đây, nó đã có thể thấy bãi cỏ uốn lượn, tuyết phủ trắng xoá, ở phía bên kia vòm cửa cuối cùng. Nhưng ai, hay cái gì, đang ở đằng đó? Nó đã thực sự thoát hay chưa? Charlie ngần ngại, hít thật sâu và lừng khừng bước qua cửa vòm.
Có ai đó bước tới, đi bên cạnh nó.
“Chào em, Charlie,” Gabriel mừng rỡ. “Em bình an rồi.”
Charlie nhẹ nhõm đến độ nó nghĩ mình sắp xỉu đến nơi. Nhưng trước khi nó ngã xuống, thì những cánh tay mạnh mẽ đã đỡ nó đứng thẳng dậy, và Tancred, Lysander lo lắng quan sát gương mặt nó.
“Ái chà!” Tancred la lên.
“Em không sao chứ?” Lysander ân cần.
“Không sao,” Charlie đáp. “Cám ơn các anh,” nó thấy khắp mặt đất vương vãi đầy những nhánh cây to, nhỏ; còn tuyết bị vun lại thành những ụ to phành phành.
“Ở đây vừa có bão,” nó buột miệng.
“Kèm những thứ khác nữa,” Lysander cười ngất.
“Như thế là quá nhiều đối với một số người,” Tancred phụ họa, thậm chí còn cười ngất hơn Lysander.
Charlie thấy hai bóng người quỳ mọp trên đất. Nó nhận ra đó là Manfred và Zelda.
“Nhanh lên đi nào,” Gabried giục giã. “Thể nào bà bếp trưởng cũng sẽ bày một đại tiệc lúc nửa đêm cho coi.”
“Tiệc?” Charlie kinh ngạc. “Có được phép làm vậy không?”
“Tối nay là một ngoại lệ,” Lysander nheo mắt nói. “Bất cứ việc gì cũng đều được phép tuốt.”
Khi chúng đến gần khối đen lừng lững của Học viện Bloor, Charlied để ý thấy vài cửa sổ đang rực sáng đèn. Dẫn đầu đám trẻ con đông nghẹt, nó nhận ra Olivia và Fidelio đang nhảy múa như điên cuồng và cuống quýt vẫy tay.
Charlie vẫy tay đáp lại.
“Tụi bạn em đó, trông tụi nó tức cười quá.”
“Fidelio đã báo cho anh biết là em bị lạc,” Gabriel nói. “Nếu cậu ấy mà không nói thì có lẽ bây giờ em vẫn còn đang ở trong khu quỷ quái đó.”
Charlie rùng mình.
Tancred mở cửa vườn, và chúng vô giữa đám đông trẻ con đang đứng giăng như thành lũy. Hết thảy bọn trẻ tranh nhau la hét.
“Bồ ra bằng cách nào hay vậy, Charlie?”
“Chuyện gì xảy ra trong đó vậy?”
“Sao em lại bị lạc thế?”
“Tránh đường,” Lynsander vừa hét vừa đẩy đám đông đi vô.
“Thôi nào, tất cả,” Tancred thúc hối. “Cho Charlie qua nè.”
Đám đông ngoan ngoãn dạt ra thành một lối hẹp, để cho Tancred, Lysander và Charlie đi giữa hai hàng học trò. Cuối cùng, khi vô đến hành lang, Charlie thấy cái bàn dài để đèn lồng bây giờ chất đầy những dĩa bánh mì kẹp, bánh nướng, xúc xích và khoai tây chiên. Bà bếp trưởng đang hối hả bên cạnh bàn, tất bật phân phát các món ăn.
“A, vị khách danh dự đây rồi,” bà reo lên khi trông thấy Charlie. “Này này, thằng bé lạnh cóng tội nghiệp kia, giờ thì con muốn ăn cái gì nào?”
Charlie ngây ngất. “Ừm… à,” nó lắp bắp, đảo mắt khắp bàn thức ăn. “Con không… ờ…”
Món nào cũng ăn,” Lysander diễn giải. “Nó muốn ăn tất tần tật.”
“Rồi, rồi, có ngay, có ngay,” bà bếp trưởng vừa nói vừa thoăn thoắt múc một dĩa đầy thức ăn.
Charlie bắt gặp Olivia và Fidelio đang cố sức chen lấn khỏi đám đông.
“Tiếp theo bà lấy cho mấy đứa bạn kia của con được không ạ?” nó hỏi bà bếp trưởng. “Tụi nó vừa…”
“Không được,” bà bếp trưởng gạt phắt, rồi trao cho nó cái đĩa. “Phải xong ba dĩa đầu tiên này đã.”
Bà chỉ những người đã cứu Charlie.
“Nếu không có họ, con đã chẳng ở đây được, đúng không nào?”
“À… đúng ạ,” Charlie hơi tẽn tò. “Con xin lỗi.”
Bà bếp trưởng nháy mắt với nó một cái, rồi phát dĩa thức ăn (loại thập cẩm) cho Gabriel và Tancred, và một dĩa khoai tây cho Lysander, người chỉ thích khoai tây chiên.
Charlie thấy tất cả các giáo viên thuộc khoa thanh nhạc đều có mặt trong hành lang. Họ đang cố sắp xếp lũ trẻ thành từng nhóm. Thầy Paltry mặt đỏ nhừ và có vẻ tức giận, nhưng giáo sư Saltweather xem ra lại có vẻ thích chí. Chốc chốc, ông lại bật hát lên khi hướng dẫn lũ trẻ ra bàn.
Cô Chrystal tươi cười với Charlie và giơ hai ngón tay cái lên với nó. Cô đang giúp bà Dance giữ tụi nhỏ hơn ở yên ngoài hành lang. Ngoại trừ Tancred và Lysander, chỉ có các học viên của khoa nhạc mới được phép dự tiệc.
Olivia đã xoay xở đâu đó được một chiếc áo chùng xanh, và cho đến giờ, không ai trong các thầy cô nhận ra nó không phải là học trò của khoa nhạc. Nó chạy lại chỗ Charlie, với hai dĩa xúc xích trên tay.
“Tớ lấy thêm một dĩa cho đằng ấy đây. Tội nghiệp đằng ấy quá, mình mẩy bầm tím cả, eo ôi nhìn đầu tóc kìa.”
Charlie vuốt vuốt đám tóc bùi nhùi như cái bờ giậu của nó, bám đầy lá và nhánh cây nhỏ.
“Ừ, mình quên mất,” nó nói.
Nó đã khá no rồi, nhưng không thể từ chố lời mời của Olivia.
“Tụi mình ăn chung đi,” nó đề nghị, rồi hạ giọng hỏi, “Sao bồ lấy được cái áo chùng xanh này vậy?”
“Của Billy đó,” nó bật mí. “Thằng nhỏ mệt quá nên không xuống được, uổng cho nó quá. Nó tìm thấy huy chương đấy, đằng ấy biết chứ?”
“Ừ, mình biết,” Charlie ưu tư.
Fidelio liếc Charlie một cái, chân mày nhướng cong lên. Chúng cần phải nói chuyện với Billy Raven, Charlie quyết định. Ai đó (hay một điều gì đó) đang khiến thằng bé này hành xử hết sức kì lạ.
“Mình không tin được là toàn bộ các món ăn này được dọn ra chỉ vì mình bị kẹt trong khu vườn hoang,” nó lẩm bẩm.
“Ấy là do bà bếp trưởng đó,” Fidelio giải thích. “Khi bà ấy quyết định điều gì thì không thầy cô nào có thể ngăn được. Kể cả giáo sư Bloor. Năm ngoái, một nam sinh tên là Ollie Sparks biến mất trong ba ngày. Nó bị lạc trong khu mục nát của tòa nhà và không ai tìm thấy nó. Cuối cùng nó cũng ra được nhờ chui qua một cái lỗ dưới sàn nhà. Khắp người nó trầy xước và bầm tím, tóc bám đầy mạng nhện. Thậm chí một thời gian sau nó vẫn chưa nói được. Nhưng cuối cùng bà bếp trưởng cũng dọn lên cho nó một bữa tiệc nửa đêm thịnh soạn. Sau đó nó được gởi về nhà, không bao giờ quay lại đây nữa.”
“Em không trách…”
Lời nói kế tiếp của Charlie chợt ngừng lại dở chừng trên môi, bởi vì cửa vườn đột ngột mở toang, và giáo sư Bloor với bà cô Lucretia xuất hiện. Mỗi người một tay, họ đang kéo cái thân người mềm rũ của Manfred Bloor. Rõ ràng là trông hắn không còn cái vẻ dọa dẫm nữa. Đầu hắn ngửa về trước và đôi mắt dễ sợ nhằm hờ lại. Bà cô Lucretia thảy một cái nhìn héo úa về phía Charlie, trước khi biến mất qua cánh cửa dẫn đến chái phía tây.
Sự im lặng rơi phịch xuống khắp hành lang khi thầy Carp và một giáo viên nữa xuất hiện, dìu theo cái hình hài lết đi khập khiễng của Zelda Dobinski.
Tất cả đám nhỏ ngày thường vẫn sợ Zelda và Manfred, giờ việc trông thấy cảnh hai đứa này sống dở chết dở cũng khiến cho mọi trò vui tắt ngấm trên bàn tiệc. Một loáng sau gần như tất cả bọn trẻ bắt đầu chuồn về phòng ngủ.
Khi Charlie, Gabriel và Fidelio nhẹ nhàng đi vô, tất cả nam sinh trong phòng ngủ chung hình như đã ngủ cả. Nhưng có tiếng sụt sịt phát ra từ phía góc phòng có giường của Billy. Trong bóng tối, Charlie mò tìm đến giường của thằng bé.
“Billy,” nó gọi khẽ. “Em còn thức không?”
“Em xin lỗi vì đã bỏ anh lại trong khu vườn hoang,” Billy thì thầm. “Em không cố tình để anh bị thương đâu.”
“Không sao đâu,” Charlie đáp lại. “Nhưng em đã phản bội Emilia, em có biết không? Em đã nói cho ai đó về việc Emilia ấy tỉnh lại. Sao em lại làm thế, Billy?”
Không có tiếng trả lời.
“Có người nào đó bắt buộc em phải làm thế, đúng không?” Charlie dò hỏi.
Một sự im lặng kéo dài, mãi rồi Billy mới thì thầm:
“Em chỉ muốn được nhận làm con nuôi thôi. Như vậy là sai hả anh?”
Charlie không trả lời.
Ngày hôm sau, nhịp sống trở lại bình thường. Điều khác biệt duy nhất là hầu hết các giáo viên đều biết thông cảm hơn mọi thường. Họ giả đò lờ đi những cái ngáp và vài lỗi quên của Charlie. Thực ra thì nó đã ngủ gật trong giờ Ngữ Văn. Chỉ có thầy Paltry là vẫn nóng tính như thường lệ.
Và rồi, vào giờ ăn trưa, Fidelio nhảy xổ đến chỗ Charlie, loan báo một tin hết sức động trời: anh trai Felix của nó đã đến, lấy cớ là để giao cây vĩ cầm vừa sửa xong, nhưng kì thực là để báo cho Fidelio hay những gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài.
“Emma và cô Ingledew cứ khoá cửa, ở trong tiệm sách suốt,” Fidelio báo. “Hai dì cháu không cho ai vô. Gia đình Moon nện cửa ầm ầm, đòi Emma phải về với họ. Họ nói cuộn băng của tiến sĩ Tolly chẳng chứng minh được gì cả. Không có giấy tờ và chữ kí thì họ không tin Emma là con gái của nhà phát minh.”
Charlie bật dậy. “Tức là sau những gì tụi mình đã làm, cô Ingledew vẫn không thể giữ Emma lại suốt đời hả?”
“Có lẽ thế thật,” Fidelio buồn bã. “Trừ phi tìm thấy giấy tờ.”
“Giấy tờ gì?” Charlie hỏi.
“Em biết đó, những thứ giấy chứng minh xem em là ai. Đại loại như là giấy khai sinh, giấy nhận con nuôi vậy đó.”
Charlie rên rỉ. “Cái bọn gia đình Bloor ấy, chúng nó có những loại giấy tờ đó mà, phải không? Em cá là bọn họ giấu ở đâu đó.”
“Chắc chắn,” Fidelio tán thành. “Việc kế tiếp chúng ta phải làm là tìm cho ra những giấy tờ đó.”
Charlie hình dung ra viễn cảnh khủng khiếp là một ngày kia nó bị bắt quả tang đang leo vô những gác mái tối hù, và bị cấm túc năm này qua năm khác.
“Không dễ đâu,” nó làu bàu.
Nhưng việc ấy đã diễn ra mà Fidelio và Charlie không phải làm gì cả. Có người khác đã làm thay chúng, theo một cách cực kì ấn tượng.
Những tiếng nổ bắt đầu diễn ra trước khi đèn tắt một giờ. Tiếng nổ đầu tiên thật khó mà nghe thấy. Chiếc đèn lồng treo phía trên cổng chính nổ bụp một tiếng nhỏ, và những mảnh thuỷ tinh văng ra. Tiếng nổ kế tiếp lớn hơn. Một tấm kính cửa sổ của chái phía tây nứt ra và vỡ vụn xuống lớp sỏi trên khoảng sân gạch.
Lũ trẻ bật ra khỏi giường, hoặc bươn ra từ các nhà tắm, quýnh quáng vứt cả khăn tắm và bàn chải, để xem chuyện gì đang xảy ra.
Charlie mở cửa sổ trong phòng ngủ chung, mười hai cái đầu thò ra khỏi các bậu cửa sổ. Phía dưới, chúng thấy một người đàn ông cao lớn, khoác áo dài đen sẫm. Ông đeo bao tay đen, mang khăn quàng trắng, và mái tóc đen rậm rạp óng ánh như viên đá được đánh bóng.
“Ôi chao!”
“Ông ta là ai thế?”
“Ông ta làm gì vậy?”
Những tiếng xì xầm làm ong ong cả đầu Charlie. Nó thấy các cửa sổ khác cũng đã mở, lũ trẻ đang trao tráo dòm xuống sân.
“Đó là ông cậu của mình,” Charlie kiêu hãnh trả lời, kèm theo một nụ cười đắc ý.
“Ông cậu của bồ?”
“Ông ấy muốn gì?”
“Ông ấy làm bể cái cửa sổ đó phải không?”
“Ông ta làm bằng cách nào vậy?”
“Trông ông ấy đâu có giống mấy thằng hay đi đập bể cửa sổ đó!”
Lời bàn tán mỗi lúc mỗi rôm rả hơn, và tiếng bà giám thị từ hành lang, quát quàng quạc.
“Đóng cửa sổ lại! Vô giường mau! Tắt đèn! Tắt đèn!”
Một vài đứa vội vàng trở về giường, nhưng những đứa khác vẫn mải miết ngó người đàn ông dưới sân. Bây giờ ông đang chậm rãi bước thành những vòng nhỏ, và ngước lên nhìn bọn trẻ. Khi thấy Charlie, ông cười hết cỡ. Charlie nín thở. Nó cảm thấy có tiếng ngâm nga rất lạ, vốn luôn xuất hiện trước khi xảy ra sự cố bể bóng đèn.
“Bloor!” Ông cậu Paton bất ngờ hét lớn. “Ông biết ta đến đây vì cái gì rồi đấy. Hãy cho ta vô.”
Cánh cửa được trang trí bằng đinh tán đồng vẫn đóng im ỉm. Tiếng xì xào dứt hẳn. Tất cả mọi người nín thở chờ xem điều gì sẽ xảy ra.
“Giỏi lắm,” ông cậu Paton gầm lên.
Giờ, ông quay lưng lại phía bọn trẻ và đối mặt với các phòng riêng của gia đình Bloor ở chái phía tây.
Một tiếng rầm. Những tấm kính của cửa sổ đang sáng đèn bay vèo vèo trong không trung. Tấm này nối tiếp tấm khác. Tiếng nổ lần sau lớn hơn tiếng nổ lần trước, những mảnh kính bay rớt xuống đất càng lúc càng hăng.
Charlie sững sờ. Nó không ngờ là khi cần thì phép thuật của ông cậu nó cũng có thể mạnh mẽ đến vậy.
“Yewbeam!” có giọng nói rít róng. “Dừng lại, nếu không ta sẽ gọi cảnh sát.”
“Ồ, ta không nghĩ vậy đâu,” ông cậu Paton quát lại. “Có những việc đang xảy ra ở đây mà ông sẽ không muốn cho cảnh sát biết đâu. Nào, bây giờ thì đưa giấy tờ của Emma Tolly cho ta, trước khi ta làm bể tất cả bóng đèn trong tòa nhà này.”
Charlie thấy một cửa sổ ở chái phía tây đóng sập lại, nhanh như chớp.
Căn phòng có cánh cửa sổ đó tối thui, nhưng một giây sau, một cửa sổ khác vỡ tan tành. Và bây giờ, ông cậu Paton hướng sự chú ý sang chái phía đông, nơi một số giáo viên không nhận ra bóng đèn là nguồn gốc của những tiếng nổ, vẫn đang bận bịu dọn dẹp các lớp học.
BỐP! BỐP! BỐP! Ba cửa sổ của phòng thí nghiệm khoa học nổ tung. Nhưng lần này tình hình nghiêm trọng hơn nhiều. Có thứ gì đó trong phòng thí nghiệm bốc cháy. Khói đen và mùi hoá chất cháy bị gió cuốn lên, xộc tới lũ trẻ đang đứng nhìn.
“Ngừng lại!” giáo sư Bloor rống lên. “Paton, ta xin ông!”
“Đưa giấy tờ cho ta,” ông cậu Paton yêu sách.
Im lặng.
Thế rồi bất thình lình một cơn mưa như châu báu đủ màu trút xuống. Ai đó đã quên tắt đèn trong nhà nguyện, và những cửa sổ ráp kính màu giờ đây chỉ còn trong dĩ vãng.
“Thôi thôi!” một giọng thét lên.
Trong bầu không khí yên lặng tiếp sau đó, một đám giấy tờ bay lơ lửng từ một cửa sổ trên lầu. Giấy chao liệng và lượn lờ mấy vòng trước khi rơi xuống đất, hệt như những bông tuyết khổng lồ ham vui đùa.
Vừa chạy đến nhặt những tờ giấy rơi, ông cậu Paton vừa bật cười, ban đầu là tiếng khà khà trong cổ họng, rồi rộ lên thành một tiếng cười sang sảng, và cuối cùng là một tràng cười “Ha! Ha! Ha!” ngạo nghễ trong chiến thắng.
Lũ trẻ đứng chứng kiến không thể không bắt cười theo, và chẳng mấy chốc, sân Học viện Bloor tràn ngập tiếng cười, và tiếng dội của nó vẫn còn được nghe thấy đến mãi tận lễ Giáng sinh.