Chương 19: Chương 17

Chàng hiệp sĩ tỏa sáng, rung chuông và hát thánh ca

Thật sung sướng khi thức dậy vào sáng chủ nhật mà biết rằng nội Bone vẫn còn say ngủ. Charlie nhảy ra khỏi giường và đi xuống ăn một bữa sáng thỏa thích với ngoại Maisie và mẹ.

“Ngoại tin chắc là dạo gần đây con có vài bữa điểm tâm chẳng ra gì, đúng không nào?” Ngoại Maisie hỏi.

“Năm bữa ạ,” Charlie đáp. Nó xin phép bà và mẹ là nó sẽ tới nhà Benjamin hơi lâu lâu, và để đền bù cho khoảng thời gian đó, nó sẽ đi rửa đĩa sau bữa điểm tâm.

Nhưng mẹ không muốn nó làm như vậy.

“Con cứ đi, vui vẻ thoải mái vào,” mẹ nó nói, tươi cười vẫy tay tạm biệt nó.

Benjamin trông có vẻ lo lắng khi ra mở cửa cho Charlie.

“Mình vừa nhận được thư của ba má,” nó bảo.

“Mình ngạc nhiên tưởng ba má bồ ở nhà chớ,” Charlie ngạc nhiên.

“Mình cũng tưởng vậy. Nhưng có lẽ ba má đã đi hồi sớm nay. Mình nhớ mang máng là má có vô hôn mình khi trời vẫn còn tối. Khi thức dậy, mình thấy bức thư này dưới gối.” Benjamin dẫn Charlie vô bếp, nói con Hạt Đậu đang xơi nốt món bánh đa rắc bắp.

“Mình đọc thư được không?” Charlie hỏi.

Benjamin đưa bức thư cho Charlie. Rõ ràng là bức thư được viết vội, vì nét chữ xổ ào ào trên trang giấy, với những vòng móc nguệch ngoạc dính vào nhau. Lá thư viết:

‘Benjamin yêu quý của ba má,

Như con đã biết, ba má là những thám tử tư. Dạo gần đây ba và má đang cùng điều tra chung một vụ án. Đó là vụ một người lau cửa sổ bị mất tích. Vụ này đã ngốn hết thời gian của ba má, làm cho ba má mệt nhoài, và ba má rất tiếc. Benjamin yêu quý, là ba má thường phải để con ở nhà một mình. Ba má sẽ đền bù cho con khi về nhà.

Đây là lí do ba má viết lá thư này. Vụ mất tích kì lạ của người lau cửa sổ vừa chuyển sang một bước ngoặt đầy lí thú. Ba má vừa nhận được thông tin là anh ta có thể đang bị mắc kẹt trong một cái thang ở Scotland, vì thế ba má sẽ tới đó ngay tức khắc, trước khi anh ta biến mất lần nữa.

Hãy tự chăm sóc mình nhé, Benjamin thân yêu.

Thương con nhiều.

Ba má.

Tái bút: Một phụ nữ dễ mến do dịch vụ xã hội gởi đến sẽ trông nom cho con đến khi ba má trở về.’

“Mình không thích cái đoạn nói về người phụ nữ dễ mến,” Charlie nhận xét khi đã đọc xong lá thư. “Từ ‘dễ mến’ có thể hiểu theo nhiều cách của mỗi người.”

“Miễn bà ấy tốt với con Hạt Đậu là được rồi, mình không quan tâm,” Benjamin nói, vẻ thờ ơ.

Hai thằng quyết định đến nhà cô Ingledew ngay tức khắc. Benjamin đã cẩn thận sang thêm một cuộn băng, đề phòng trường hợp Manfred xuất hiện bất ngờ để lục soát chúng, hoặc điều gì khủng khiếp tương tự xảy ra. Nó cũng đã đẩy một chiếc va-li to xuống tầng hầm, và thảy một tấm thảm lên trên, để bất cứ ai lùng sục kiếm cái thùng của tiến sĩ Tolly sẽ bị đánh lừa mất một lúc.

“Chắc là bồ phải tất bật lắm nhỉ,” Charlie trầm trồ thán phục.

Với sự dẫn đường của con Hạt Đậu, hai đứa xuất phát, tới hiệu sách. Vì là ngày Chủ Nhật nên chúng thấy hiệu đóng cửa (tất nhiên rồi), nhưng sau vài tiếng gõ cửa và vài lần gọi thật lớn, cô Ingledew đã ra. Cô mặc một chiếc áo choàng dài màu xanh lá cây, và trông cô buồn rười rượi.

“Các cháu muốn gì?” Cô hỏi. “Trời đất ơi, hôm nay là Chủ Nhật mà.”

“Cháu xin lỗi, cô Ingledew,” Charlie nói. Nó báo cho cô biết về cuộn băng chúng đã tìm thấy trong con chó kim loại.

“Nó rất có ý nghĩa với cô đấy,” nó nói. “Vì thế tụi cháu mang nó tới cho cô đây. Nó sẽ nói cho cô biết tất cả mọi điều về cháu gái của cô. Cô bé đang ở trong học viện, và tụi cháu nghĩ mình có thể đánh thức bạn ấy.”

“Đánh thức bạn ấy? Các cháu đang nói về cái gì vậy? Đi vô đây đã, cả hai đứa.” Cô liếc con Hạt Đậu. “Nó không ăn sách đấy chứ?”

“Không bao giờ,” Benjamin cam đoan.

Chúng theo cô Ingledew đi qua tấm rèm và vào phòng khách ấm cúng, nơi xếp sách thành hàng, con Hạt Đậu chú ý cẩn thận để không làm đổ những chồng sách nhỏ nằm rải rác trên sàn.

Cô Ingledew nhét cuộn băng vô một chiếc máy ghi âm đầy bụi bặm và ra hiệu cho hai đứa ngồi xuống. Chúng ấn mình vào chiếc ghế bành duy nhất còn trống (những ghế khác đều chất đầy ắp sách và báo), trong lúc cô Ingledew ngồi ghé vào một bên cạnh bàn. Cô bấm nút cho băng chạy và giọng nói tiến sĩ Tolly vang vang khắp căn phòng.

Hai đứa quan sát nét mặt cô Ingledew khi cô lắng nghe. Nhiều lần cô lắc đầu và thường xuyên quệt tay ngang mắt. Chốc chốc, cô lại thốt lên “Ồ, không” và cuối cùng, khi băng đã hết, cô nghẹn ngào, “Cô nhớ rất rõ ngày hôm đó. Có một điều lạ lùng đã xảy ra – đáng lí cô phải đoán ra mới phải.”

“Là điều lạ lùng gì ạ?” Charlie hỏi.

“Mấy con mèo,” cô Ingledew đáp.

“Mèo à?” Charlie bật dậy.

“Cô không biết chúng ở đâu tới, nhưng vào cái ngày bé Emma phải đi, thì chúng đột nhiên xuất hiện trong nhà bếp của cô. Chúng làm lửa bùng lên bằng cách hất cho một chiếc khăn lau đĩa rớt vô bếp ga. Phải mất một hồi mới dập được đám cháy đó. Bộ lông của chúng rất rực rỡ – đỏ, cam, vàng – và chúng cứ vây tròn quanh đứa bé, cứ như cố gắng bảo vệ nó vậy. Cuối cùng, khi tiến sĩ Tolly bồng đứa bé đi, chúng cào vô mặt chú ấy một vết kinh khủng.”

“Một trong mấy con mèo đó có trong bức hình,” Charlie nói.

“Cô dám chắc đó chính là nó,” cô Ingledew công nhận. “Lúc trước chúng lảng vảng khắp nơi. Nhưng khi Emma đi rồi thì chúng biến mất luôn.” Cô xoa trán. “Vậy là bé Emma tội nghiệp vẫn còn bị mê ngủ. Điều này thật hết sức không bình thường.”

“Bạn ấy bị thôi miên,” Charlie nói. “Manfred cũng đã làm như thế với cháu. Có điều hắn thôi miên bạn ấy nặng hơn. Nhưng sức thôi miên đang mất dần tác dụng, cô Ingledew ạ. Cháu nghe bọn họ nói chuyện về cháu gái của cô, Manfred nói rằng nó đã chán ngấy vì cứ phải “kìm giữ con bé”. Như vậy sẽ không phải mất nhiều công sức để làm bạn ấy tỉnh lại đâu cô ạ, và tụi cháu nghĩ là tụi cháu có một thứ để làm được việc đó.”

“Nhưng hiện giờ Emma là ai trong trường cháu, Charlie?”

“Tụi cháu nghĩ đó là một nữ sinh tên là Emilia Moon,” Charlie nói. “Bạn ấy có mái tóc vàng hoe, mắt xanh, trông hơi mơ màng. Bạn ấy ít nói nhưng vẽ rất giỏi.”

“Nancy,” cô Ingldew thì thào. “Nghe tả thì con bé có vẻ giống chị Nancy của cô quá. Ồ, ước gì cô có thể gặp con bé ấy.”

“Cô cứ để chuyện đó cho tụi cháu, cô Ingledew à,” Charlie nói, nhổm đứng lên. “Tụi cháu sẽ tìm cách làm bạn ấy tỉnh lại, rồi bạn ấy có thể về sống với cô.”

Cô Ingledew thở gấp gáp. “Có nên làm điều đó không? Biết đâu con bé đang hạnh phúc khi sống với gia đình Moon.”

“Trông bạn ấy có vẻ không vui,” Charlie ái ngại. “Chắc chắn bạn ấy còn không biết là bạn ấy biết bay nữa.”

“Đúng thế ạ,” Benjamin xác nhận. “Ước gì cháu cũng biết bay.”

“Cô nghĩ thật khó có chuyện Emma biết bay. Tiến sĩ Tolly trước đây không bao giờ đề cập đến chuyện này.” Cô Ingledew búng mình ra khỏi bàn. “Cô không biết phải cảm ơn cháu thế nào cho đủ, Charlie, và cả cháu nữa, Benjamin,” cô xúc động, “Các cháu đã mang hi vọng đến cho cô. Hãy cho cô biết khi nào thì các cháu cần cô giúp nhé.”

“Nhất định rồi,” Charlie nói. Nó vừa liếc thấy một mảnh thuỷ tinh nhỏ xíu lấp lánh trên tóc cô Ingledew, và phân vân không biết làm sao để đề cập đến vụ nổ bóng đèn không may kia. Nó phải nói thôi, vì ông cậu Paton. Nhưng con Hạt Đậu đang sủa ầm ĩ và chúng đã đi qua tấm rèm, hướng ra cửa.

Charlie đột ngột đứng lại, hắng giọng và nói, “Về ông cậu của cháu, thưa cô Ingledew...”

Mặt cô Ingledew ửng đỏ lên. “Cô không muốn nói đến chuyện đó.”

“Nhưng đó là một tai nạn.”

“Tai nạn à? Thật xấu hổ chưa từng thấy.”

“Ý cháu muốn nói tới vụ bóng đèn, cô Ingledew à. Ông cậu của cháu không thể kiểm soát được mình.”

“Bóng đèn?” Cô Ingledew không hiểu. “Ông ấy đột ngột bỏ cô lại, ừm, nói chính xác là bỏ chạy. Ai cũng có thể nghĩ cô là một bà chằn.”

“Không phải đâu ạ. Hoàn toàn ngược lại. Chính vì ông cậu của cháu nghĩ cô rất đẹp nên mới xảy ra chuyện đó.”

Nhìn vẻ bối rối của cô Ingledew, Charlie sốt sắng đi thẳng vào vấn đề và nói toẹt ra sự thật về thiên khiếu kì dị của ông cậu nó.

Cô Ingledew sững người nhìn Charlie, ban đầu không tin, sau thì kinh hãi. Cuối cùng, một thoáng lo lắng hiện ra trên nét mặt cô.

“Ra là thế,” cô lầm bầm. “Thật là kì dị.”

“Ông cậu thực lòng rất muốn gặp lại cô,” Charlie nói tiếp, tràn trề hi vọng.

“Hừm,” cô Ingledew ậm ừ. “Bây giờ cô cảm thấy hơi mệt, các cháu à.”

Cô mở cửa và hai đứa ngoan ngoãn bước ra. Cánh cửa đóng chặt lại sau lưng chúng.

“Mình không hề biết là ông cậu của bồ đã làm những chuyện đại loại như vậy,” Benjamin nói.

“Đừng nói với ai nhé,” Charlie dặn dò. “Đáng ra mình không nói với cô Ingledew đâu, nhưng ông cậu Paton tha thiết muốn gặp lại cô Ingledew, vì thế mình nghĩ tốt nhất là nói ra sự thật.”

“Mình lại nghĩ điều đó làm cho cô ấy sợ chết khiếp,” Benjamin nói. “Giờ tụi mình ghé nhà anh Fidelio đi. Lẹ lên. Mình có bản đồ đây.”

Benjamin và con Hạt Đậu chạy đua với nhau ở phía trước, trong khi Charlie đủng đỉnh theo sau, cảm thấy chuyện giữa cô Ingledew và ông cậu nó thật bi đát. Xem ra nó đã làm cho tình huống thậm chí còn xấu hơn.

Nhà của Fidelio trông thật lạ mắt, hay nói chính xác hơn, thật là lạ tai. Đó là một ngôi nhà cũ, rộng rãi, may mắn thay, nằm biệt lập giữa một quảng trường rải sỏi. Cái gọi là vườn chỉ là những mảng cỏ lưa thưa chung quanh nhà, trồng bên trong một bức tường thấp bằng gạch.

Khi Benjamin và Charlie đến nơi, tiếng ồn từ trong nhà phát ra khủng khiếp đến nỗi chúng tìm thấy mấy cái xà bằng gỗ sồi đỡ mái hiên rung lên, và hai viên ngói tuột khỏi mái nhà rồi vỡ vụ dưới lối đi lát gạch.

Tiếng ồn hợp thành từ nhiều loại nhạc cụ – nổi bật là tiếng vĩ cầm, tiếng hồ cầm, tiếng sao, tiếng thụ cầm, và tiếng dương cầm. Một tấm biển đồng gắn trên cửa cho chúng biết nơi này được gọi là Mái Ấm Gia Đình Gunn(*). Khi nghe tiếng trống không ngớt dội ra từ một cửa sổ thấp, hai thằng nghĩ, thật đúng là súng nổ đùng đoàng.

(*) Họ của Fidelio là Gunn, đọc hơi giống với từ “gun” – có nghĩa là súng.

Charlie tự hỏi không biết làm thế nào mà người trong nhà nghe được chuông cửa. Và ngay lập tức, nó vỡ lẽ ra: khi nó nhấn chuông, một giọng nói được thu âm cất lên oang oang: “MỞ CỬA! MỞ CỬA! MỞ CỬA!”

Hai đứa giật nảy người ra sau, và con Hạt Đậu tru lên một tràng dài sợ hãi. Mấy giây sau, Fidelio ra mở cửa, Charlie và Benjamin nhận ra mình đang bước vào một vương quốc âm nhạc. Trẻ con rần rần chạy ngược xuôi trên cầu thang, ra vô khắp các phòng, tay đứa nào đứa nấy cầm bản nhạc hoặc rất nhiều loại nhạc cụ.

“Đây là... ý em là tất cả những người này đều thuộc gia đình anh à?” Charlie ngạc nhiên hỏi.

“Hầu hết,” Fidelio trả lời. “Gia đình anh có mười người, tính cả ba và mẹ. Còn đâu là mấy người bạn yêu nhạc của nhà anh ghé chơi. Anh cả Felix của anh đang bắt đầu thành lập một ban nhạc rock.”

Một người đàn ông to lớn, có râu quai nón băng ngang qua chiếu nghỉ trên đầu cầu thang, và Fidelio gọi với theo, “Ba ơi, đây là Benjamin, còn đây là Charlie!”

Ông Gunn tươi cười nhìn xuống lũ trẻ và hát to lên:

“Benjamin và Charlie, ăn lúa mì, chào mừng cả hai con, tuy chẳng có chi.”

Ông cười ha ha rồi biến mất vô một căn phòng tràn ngập tiếng vĩ cầm.

“Xin lỗi nhé,” Fidelio phân bua. “Ba anh thích chuyển tất cả mọi thứ thành bài hát. Anh đã cất cái thùng vô căn phòng ở trên tầng cao nhất rồi. Đi nào.”

Rồi nó dẫn hai đứa bạn và con Hạt Đậu đang run lẩy bẩy đi lên cầu thang, đi ngang qua những cánh cửa rung lên bần bật vì âm thanh. Căn phòng của ban nhạc rock khiến Hạt Đậu rên lên thật thê thảm. Benjamin phải lấy cả hai tay bịt tai nó lại. Bất cứ khi nào đi ngang qua một đứa trẻ tóc vàng nhạt và có tàn nhang giống như Fidelio, thì cu cậu lại giới thiệu, “Đây là Benjamin, còn đây là Charlie,” và hai thằng bé sẽ được chào đón bằng nụ cười rạng rỡ cùng với lời “Xin chào” hoặc “Chào”, hoặc “Rất hân hạnh gặp hai em”.

Sau cùng, chúng đã đến một cánh cửa nơi chót vót của căn nhà, và Fidelio dẫn hai đứa vô một căn phòng đầy ắp, như muốn nứt ra vì những thùng đựng nhạc cụ đủ mọi kích cỡ.

“Đây là ‘nghĩa trang’ dành cho nhạc cụ,” Fidelio giải thích. “Là nơi nhà anh cất giữ tất cả mọi thứ bị gãy vỡ, để một ngày nào đó sẽ sửa chúng lại.”

Nó kéo cái thùng dài đựng mộc cầm ra ánh sáng, cậy nắp và nhấc cái thùng kim loại của tiến sĩ Tolly ra ngoài.

“Tụi mình mở nó ra nhé?” Fidelio vừa hỏi vừa đặt cái thùng xuống sàn nhà.

Đột nhiên Charlie cảm thấy hoang mang. Nó vừa không thể chờ nổi giây phút mở ra xem trong thùng có cái gì, tuy nhiên, nó lại hơi sờ sợ. Ông cậu Paton chẳng đã đề nghị nó khi mở thùng thì phải để ông có mặt, để giúp đỡ nếu có gì đó không ổn hay sao? Nhưng cái gì có thể không ổn được trong một ngôi nhà thân thiện và ồn ào như thế này cơ chứ? Sẽ không ai nghe được những âm thanh mà tiến sĩ Tolly đã chế ra; và nếu có chăng nữa, thì họ cũng sẽ chẳng nghĩ gì về chuyện ấy cả.

“Được rồi,” Charlie nói.

“Bồ mở đi, Charlie,” Benjamin giục.

Charlie bước về phía trước và quỳ xuống cạnh cái thùng. Bây giờ nó có thể nhìn thấy rất rõ các chữ: MƯỜI HAI TIẾNG CHUÔNG CỦA TOLLY. Đầu tiên nó sờ vào các mẫu tự “M”, ấn nhẹ nhưng dứt khoát. Tiếp đến là chữ “Ư”, đến đây thì Charlie nhận thấy nó không thể dừng lại được nữa. Quá sức là dễ dàng. Nó ấn từng chữ, từng chữ một, và khi nó ấn ký tự cuối cùng, là “Y”, một tiếng vỗ nhẹ phát ra từ bên trong nắp thùng.

Charlie lẹ làng đứng lên và lùi lại vài bước.

Với một tiếng “rắc” thật lớn, nắp thùng bung ra sau, và một bức tượng người bắt đầu nhô lên khỏi cái thùng.

Chắc chắn đây không phải là những gì Charlie mong đợi. Nó đã tưởng tượng tổ tiên của tiến sĩ Tolly phải là một cụ già, mặc đồ nhung. Trong khi hình nhân bật ra khỏi cái thùng này là một hiệp sĩ. Những cánh tay và cẳng chân của chàng được bọc trong áo giáp sáng lóa, gồm những vòng kim loại xâu chuỗi vào nhau, và trên đầu chàng đội một cái mũ trùm chóp phẳng, cũng bằng những vòng kim loại xâu lại. Có một khoảng giáp hở ở mặt, nhưng cũng chỉ nhìn thấy được có mắt và mũi. Thật là một cảnh tượng kì lạ và đầy ma lực – cái hình người oai dũng, thanh cao và sáng lóa này bật dậy như một bông hoa nở nhanh. Đáng sợ nhất là thanh gươm sáng loáng trong tay phải của hiệp sĩ.

Khi bức tượng đã đạt đến hết chiều cao của nó, thì thình lình, chàng hiệp sĩ vung gươm lên, cả ba thằng bé và con chó cùng nhảy vội ra sau, cùng với những tiếng kêu, tiêng hét và tiếng sủa đầy giận dữ. Khi chúng yên lặng rồi, thì ở đâu đó bên trong người hiệp sĩ một hồi chuông bắt đầu ngân lên. Một, hai, ba... tiếp tục... và trong lúc tiếng chuông ngân vang, thì một dàn đồng ca tông trầm cất lên một bài thánh ca nghe có vẻ rất cổ.

“Tiếng La Tinh đó,” Fidelio thì thầm. “Anh đã nghe người ta tập hát bài này trong nhà thờ lớn.”

Bất giác, Charlie hiểu ra việc tiến sĩ Tolly đã làm. Ông đã sử dụng những âm thanh từng bao bọc xung quanh bé Emma Tolly vào đúng lúc cô bé bị thôi miên – hoặc bị yểm bùa. Tiến sĩ Tolly tin là những âm thanh này có thể sẽ đánh thức con gái mình dậy, và nếu như cô bé không thể nhớ ra mình là ai, thì chí ít, khi nghe những âm thanh này, cô bé cũng sẽ mang máng nhận ra được rằng đã có điều gì đó xảy ra với mình.

Hồi chuông bên trong người hiệp sĩ sáng chói rung lên lần thứ mười hai. Chàng hiệp sĩ hạ gươm xuống và bắt đầu chìm trở vào cái thùng.

Thật kì lạ khi nhìn cái cách chàng hiệp sĩ hạ người và thu nhỏ lại – chàng cúi oặt đầu và gieo mình xuống, cho tới khi nằm gọn gàng trong chiếc giường bọc vải lụa, bây giờ chàng không dài gì hơn chiều dài của thanh gươm sáng loáng.

“Chao!” Benjamin kinh ngạc.

“Tuyệt vời!” Fidelio thốt lên.

“Mình thắc mắc không biết cái thứ này có đúng là sẽ làm Emilia tỉnh lại được hay không.” Charlie lẩm bẩm.

Fidelio vẫn còn lắc đầu không tin. “Cách nào mà ông ấy làm được như thế nhỉ?” nó lẩm bẩm. “Vị hiệp sĩ dó làm bằng thứ gì vậy?”

“Gương mặt trông rất thật,” Benjamin nhận xét. “Mắt sáng quắc luôn.”

“Bằng thủy tinh,” Charlie nói. “Phần còn lại là một loại hợp chất nào đó.”

Nó nghĩ dến những mảnh tượng kim loại quái đản trong xưởng của giáo sư Bloor.

“Mình cá là tiến sĩ Tolly đã đánh lừa gia đình Bloor trong nhiều năm: gửi cho bọn họ những robot, tượng kim loại, với những bộ xương được tô màu, giả bộ như chúng có chứa bí mật đánh thức Emilia dậy. Để bọn họ đừng quấy nhiễu ông nữa. Nhưng cuối cùng họ cũng bắt được ông.”

“Họ chỉ bắt được ông ấy, chứ không lấy được Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly,” Benjamin gật gù.

Charlie đóng nắp thùng lại. “Anh nghĩ là nó sẽ an toàn ở đây cho đến cuối tuần sau chứ?” nó hỏi Fidelio.

“Tất nhiên. Nhưng tụi mình cần một bạn nữ giúp đỡ nếu tính đem Emilia đến đây.”

“Không lo,” Charlie nói chắc nịch. “Olivia Vertigo khoái mấy chuyện như thế này lắm.”

Ba đứa con trai quay trở về vương quốc âm nhạc, lần này chúng gặp bà Gunn, bà cũng có mái tóc màu vàng nhạc và mặt đầy tàn nhang y như những người khác trong gia đình. Bà đang mang một cây hồ cầm băng qua hành lang, nhưng liền dừng lại và âu yếm vỗ đầu từng đứa một khi chúng đi ngang.

Rời khỏi Mái Ấm Gia Đình Gunn, Benjamin và Charlie thẳng tiến về nhà số 9, nơi ngoại Maisie đã hứa về một bữa trưa linh đình đang chờ chúng.

Chẳng bao lâu sau, Charlie và Benjamin đã ngồi trước gà quay, khoai tây, củ cải và nhiều loại rau củ đặc biệt khác mà mẹ Charlie mang từ tiệm hoa quả về. Có ba món tráng miệng để mà lựa chọn và lũ nhóc chén cả ba: kem, bánh pudding, bánh xoài hấp.

Ông cậu Paton nói vọng xuống là không thấy đói chút nào, thế là con Hạt Đậu lãnh phần của ông cậu. Ngoại Maisie đắn đo không biết có nên chừa lại một chút thức ăn cho nội Bone hay không. “Gần như chưa khi nào bà ấy nằm trên giường lâu như vậy,” ngoại Maisie nhận xét.

Charlie cười tủm tỉm. “Sao ngoại không để Hạt Đậu xơi nốt đồ ăn còn lại cho rồi? Con đảm bảo nó muốn chén luôn phần của nội Bone đấy.”

Ngoại Maisie tán thành, và thế là con Hạt Đậu hăng hái dọn sạch phần ăn trưa thứ hai.

Benjamin ở lại tới bữa trà. Đó là lúc nội Bone thức dậy. Bà loạng choạng bước xuống lầu trong cái áo choàng xám.

“Chuyện gì thế này?” bà gắt gỏng. “Đã bốn giờ rồi. Sao không ai gọi ta dậy?”

“Bà đang mệt mà, Grizelda,” ngoại Maisie trả lời. “Chúng tôi không muốn đánh thức bà.”

“Mệt? Mệt? Ta chẳng bao giờ thấy mệt cả,” nội Bone nổi cáu.

Benjamin và Charlie liền trốn ra vườn, ở đó chúng chơi tất cả những trò mà Hạt Đậu ưa thích. Sau một lúc thì mọi thứ dường như đều trở lại giống y chang những dịp cuối tuần ngày xưa, như thể không có gì thay đổi từ khi chúng gặp nhau lần đầu, lúc cả hai mới lên 5. Kể từ đó, Hạt Đậu đã bự con lên rất nhiều.

Nhưng, tất nhiên là đã có những đổi thay. Ngày mai Charlie phải trở về Học viện Bloor, và tối nay, một người hoàn toàn xa lạ sẽ đến chăm sóc Benjamin.

“Bồ có muốn mình đưa bồ về không?” Charlie hỏi khi bạn nó quyết định nên về nhà.

Benjamin lắc đầu, “Không sao đâu mà,” nó trả lời. “Mình đã có Hạt Đậu rồi.”