Chương 6: Liên kiếm trừ hung kỳ chiêu khải nghi đậu - Trừu ti bác kiển mật thất lộ đoan nghê

Hắc Ma Ha múa cây ngọc trượng, ánh lục quang loang loáng, chạm vào thanh bảo kiếm của Trương Đan Phong, phát ra tiếng kêu lanh lãnh, Vân Lối thấy thế thì thất kinh thầm nhủ: “Té ra cây ngọc trượng này cũng là một món báu vật!”

Hai người tựa như dùng nội công thượng thừa tỉ thí, thanh bảo kiếm của Trương Đan Phong dán sát vào cây ngọc trượng không rời, còn cây ngọc trượng của Hắc Ma Ha cũng tựa như bị luồng kiếm quang của chàng bao bọc lấy, rút không ra. Chỉ thấy hai người tựa như bị đóng đinh xuống đất, giằng co một hồi, cả hai người đều toát mồ hôi trán. Vân Lối thầm nhủ: “Cứ như thế mãi, há chẳng phải cả hai đều bị thương?” Chợt nghe vù một tiếng, Hắc Ma Ha phóng vọt người lên, cây ngọc trượng chưa rút ra, cả người lẫn trượng tựa như treo trên kiếm của Trương Đan Phong, xoay chuyển kêu lên vù vù. Vân Lối thầm nhủ: “Đầy là loại võ công gì?” Chỉ nghe keng một tiếng, Trương Đan Phong kêu lớn: “Không xong rồi!”

Vân Lối thất kinh, định rút kiếm, chợt thấy hai người tách ra, lại nghe Trương Đan Phong cười lớn: “Không sao, không sao! Té ra ngươi chẳng qua là một lão lừa già, xoay chuyển cả buổi mà chẳng hiểu ra! Ha ha! Chỉ hư danh làm kinh hãi thế tục, thế nhưng không có bản lĩnh đánh lui một tên nhãi nhép! Ha ha!” Cười chưa dứt thì chỉ thấy Hắc Ma Ha râu tóc dựng ngược, quát rằng: “Tên nhãi kia, không biết sống chết!” rồi phóng vọt người lên, màn lục quang mở rộng tựa như sấm sét bổ xuống đầu Trương Đan Phong, đòn đánh này nhanh nhạy cực kỳ. Vân Lối nghe Trương Đan Phong nói xong hai câu thì cười thầm, vừa định mở miệng ra, tiếng cười đã bị người ta chặn lại, chỉ kêu a một tiếng!

Đột nhiên nghe Trương Đan Phong lại cười lớn nói: “Tên nhãi nhép đánh chết lão lừa già!” Thế rồi bước chân không dời, bụng dưới hóp vào, người rê ra phía sau, thanh kiếm dài ba thước phóng vọt lên, chiêu này đánh ra rất đúng lúc và đúng chỗ, trong khoảnh khắc một cánh tay của Hắc Ma Ha đã bị kiếm của Trương Đan Phong chặt đứt. Té ra hai người tỉ thí bằng nội công thượng thừa, dùng giằng mãi không xong, Trương Đan Phong không dám biến chiêu, còn Hắc Ma Ha thì dùng Ma bàng công của Tây Vực để thoát ra. Trương Đan Phong tuy không bị thương nhưng cũng thất kinh, lòng thầm nhủ: “Mình không thể nào thoát khỏi cục diện giằng co này, thế nhưng y lại thoát thân được, quả thật không thể coi thường”. Lúc này chàng không có thế phá địch cho nên mới cố ý nói khích. Khi Trương Đan Phong mới vào trong mộ, Hắc Ma Ha đã coi thường chàng, cứ bảo chàng là tên nhãi nhép, sau đó mới thấy chàng thể hiện bản lĩnh, cho nên mới đổi cách gọi. Nay Trương Đan Phong lại cố ý tự bảo mình là tên nhãi nhép, quả thực đã làm cho y tức giận.

Hắc Ma Ha quả nhiên trúng kế, nổi giận phóng vọt lên thi triển độc chiêu. Nào ngờ cao thủ tỉ thí với nhau, kỵ nhất là nổi giận, trong chốc lát đã rơi vào cái bẫy lấy tĩnh chế động của Trương Đan Phong, chỉ thấy kiếm của Trương Đan Phong chém xéo ra, kiếm quang đánh vào lục quang, đã chặt vào cánh tay của Hắc Ma Ha, dù y võ công tuyệt đỉnh cũng khó thoát nổi cái họa bị chặt tay!

Nào ngờ võ công của Hắc Ma Ha lại khác hẳn Trung thổ, y vốn luyện Phật du già của Ấn Độ, toàn thân mềm nhũn như không có xương, cơ bắp ở các bộ phận đều có thể co duỗi tùy ý. Trương Đan Phong đang mừng vì sắp đắc thủ, đột nhiên cảm thấy mũi kiếm của mình trượt từ cánh tay ra sau lưng của y, còn bản thân y thì lộn một vòng chổng ngược xuống đất, hai mắt mở to, tức giận quát lớn: “Tiểu tử, ta liều với ngươi!” Rồi đột nhiên nhảy bật lên, lấy chân làm tay, múa tít cây ngọc trượng đâm về phía huyệt Đan Điền của Trương Đan Phong!

Trương Đan Phong múa kiếm như gió, trong chớp mắt đã đánh ra mấy chiêu, nhưng thấy Hắc Ma Ha lúc thì phóng vọt người lên, lúc thì chổng ngược người xuống đất, tay chân đều sử dụng, đánh cây ngọc trượng kêu lên vù vù, thế công rất mãnh liệt mà chiêu nào cũng toàn là kỳ quái. Vân Lối hít một hơi, định thần nhìn lại, chỉ thấy Trương Đan Phong đã không còn mỉm cười, còn người thì bị chụp dưới màn lục quang, chẳng hề nhúc nhích, thanh kiếm múa tít, tựa như bạch hồng quán nhật, dưới vầng lục quang, lúc thì đâm bên trái, lúc thì vạch bên phải, ra tay không nhanh lắm nhưng mỗi chiêu đều ảo diệu, hóa giải từng thế công của Hắc Ma Ha. Nàng thấy kiếm phong của chàng lúc thì chỉ sang phía đông, nhưng chợt chém sang phía tây, rõ ràng là gạt bên phải, nhưng lại không biết thế nào sau khi ra tay thì lại đâm sang trái, trong mỗi chiêu đều có công lẫn thủ, thế công của Hắc Ma Ha tựa như gió bão, nhưng không thể đẩy chàng rời nửa bước. Trượng pháp của Hắc Ma Ha là bí truyền của miền Tây Vực, là tuyệt học võ lâm hiếm thấy ở miền Trung thổ, đó gọi là Thiên Ma trượng pháp. Hắc Ma Ha đánh ra hơn một trăm chiêu mà chẳng tìm thấy sơ hở của kẻ địch, cũng bất giác lạnh mình. Bạch Ma Ha ngồi một bên lo lắng, nhưng vì đã nói trước cho nên không tiện ra tay giúp đỡ.

Hai người đều dùng quái chiêu tấn công lẫn nhau, đang lúc giằng co chợt nghe bên ngoài có tiếng gà gáy sáng, chim hót véo von, thế là đã đến lúc trời sáng. Hắc Ma Ha đánh mãi mà không thắng nên nôn nóng lạ thường, ra tay càng kịch liệt hơn, Trương Đan Phong thì vẫn chẳng hề nhúc nhích, gót chân như đóng đinh xuống đất, kiếm thế không nhanh không chậm, cứ đều đều tựa như gãy đàn, trông nặng nề có vẻ nhẹ nhàng!

Vân Lối nhìn mà hoa cả mắt, trong lòng thầm lạ, nàng từ nhỏ đã theo Phi Thiên Long Nữ Diệp Doanh Doanh học kiếm, tuổi tác tuy chỉ mười bảy, nhưng đã học được mười năm. Kiếm thuật của Diệp Doanh Doanh trong võ lâm có thể nói thuộc hàng số một số hai, bà ta thông hiểu kiếm thuật của các môn các phái, do đó Vân Lối tuy tuổi còn nhỏ nhưng đối với đạo kiếm thuật có thể nói là một đại hành gia, chỉ cần đối phương ra tay thì sẽ biết được lai lịch tông phái của y. Thế nhưng nàng đứng xem cả một hồi mà chẳng thấy nguồn gốc kiếm thuật của Trương Đan Phong, chỉ cảm thấy kiếm thuật của nàng cũng tựa như những gì mình đã học, bao gồm kiếm chiêu của các môn các phái, nhưng khi ra tay thì lại khác cả những gì mình đã học, bất đồ ngạc nhiên vô cùng!

Đến khi xem đến một hồi thì chợt thấy kiếm pháp của Trương Đan Phong tựa như rất quen thuộc, nhưng lại không nói được tên của bộ kiếm pháp này. Vân Lối ngẫm nghĩ trong lòng, bản thân nàng rõ ràng chưa từng gặp, cũng chưa từng nghe sư phụ nói loại kiếm pháp quái dị ấy, nhưng tại sao nàng lại có cảm giác như rất quen thuộc? Càng suy nghĩ càng ngạc nhiên, chẳng biết giải thích thế nào. Nàng chợt thấy mỗi chiêu của chàng đánh ra tuy bất ngờ, nhưng khi ra tay xong thì lại cảm thấy chiêu ấy rất hợp ý mình, tựa như mình muốn nói một câu, chưa kịp biết thể hiện như thế nào thì người khác đã nói, mà lại nói rất đúng, khiến cho mình vừa khâm phục, vừa sảng khoái, vừa bất ngờ lại vừa trúng ý.

Vân Lối toàn thần chú ý, đột nhiên trong lòng như cảm thấy có một luồng điện lướt qua, nàng cảm nhận rằng bộ kiếm pháp của Trương Đan Phong tuy khác hẳn những gì mình đã học, nhưng tựa như tương sinh tương khắc với kiếm pháp của mình, có thể phối hợp lẫn nhau, cũng giống như một đôi huynh đệ song sinh, tâm linh giao cảm, hơi thở tương thông!

Lúc này Vân Lối cảm thấy cõi lòng xao xuyến, ký ức tràn về, tuy Hắc Ma Ha và Trương Đan Phong đang kịch chiến, nhưng hình như nàng nhìn như không thấy, nghe nhưng không thấy, đột nhiên nhớ lại những lời sư phụ đã nói với nàng trước khi xuống núi.

Đó là một đêm trừ tịch, trong một căn thạch thất trên đỉnh núi Tiểu Hàn thuộc miền Xuyên Bắc, trong phòng có mười hai ngọn đuốc to như cánh tay, số lượng và kiểu dáng của ngọn đuốc cũng giống như trong căn phòng này. Dưới ánh đuốc, một phụ nữ trung niên và một thiếu nữ xinh xắn như hoa đang ngồi, đó chính là Phi Thiên Long Nữ Diệp Doanh Doanh và ái đồ suy nhất của bà ta là Vân Lối. Trong phòng có bày rượu thịt nhưng không phải là bữa tiệc gặp gỡ trong đêm trừ tịch mà là bữa li biệt giữa hai thầy trò, té ra Diệp Doanh Doanh đang tiễn hành cho đồ đệ của bà ta, Vân Lối học nghệ đã thành, tuân lệnh thầy ngày mai sẽ xuống núi.

Từ lâu Vân Lối đã biết mình có một mối huyết hải thâm thù, lúc nào cũng muốn xuống núi báo thù, nhưng đêm nay sư phụ tiễn đưa nàng, nàng lại cảm thấy bất ngờ. Tại sao bà ta lại bảo nàng ra đi trong đêm trừ tịch thế này? Vân Lối vừa nghe sư phụ căn dặn, vừa suy nghĩ mông lung, mặt lộ vẻ nghi hoặc. Diệp Doanh Doanh tựa như cũng cảm nhận điều đó, bà ta uống ba chén rượu rồi đột nhiên buồn bã than rằng: “Năm đã sắp hết, người đi vạn dặm vẫn chưa về. Hai mươi năm trước ta tiễn một người, không, là đuổi một người ra đi, hôm nay ta lại tiễn con”.

Vân Lối nghe thế thì thắc mắc nhưng lại không dám hỏi. Phi Thiên Long Nữ thở dài xong, định thần nhìn Vân Lối thì đột nhiên nói: “Sau này nếu đến Mông Cổ, con gặp được một người thì hãy bảo rằng ta gọi y quay về”.

Vân Lối nói: “Người đó là ai?”

Phi Thiên Long Nữ nghe nàng hỏi thì gượng cười, mặt lộ sắc đỏ, lại uống thêm một chén nữa, thì thầm nói: “Tam sư bá Tạ Thiên Hoa của con”.

Vân Lối ngạc nhiên nói: “Tam sư bá Tạ Thiên Hoa? Ông ta chẳng phải đến Mông Cổ, báo thù cho gia gia của con hay sao?”

Diệp Doanh Doanh nói: “Đúng thế, y đến Mông Cổ là chuyện mười năm trước, nhưng y rời ta là đêm nay của hai mươi năm trước. võ công của y cao cường, tánh tình lại cương nghị cơ trí, y bảo sẽ báo thù cho gia gia của con thì chắc chắn sẽ làm được. Nhưng không cần phải đến mười năm”.

Vân Lối nói: “Tại sao mười năm nay không có tin tức của người?”

Diệp Doanh Doanh thở dài: “Ta đoán y không muốn trở về nữa”.

Vân Lối nói: “Tại sao?”

Diệp Doanh Doanh đột nhiên lảng sang chuyện khác, nói: “Kiếm pháp của các môn các phái trong thiên hạ ta đều hiểu, nhưng chỉ có kiếm pháp của một nhà là ta vẫn chưa thấy, con bảo có kỳ lạ hay không?”

Vân Lối nói: “Trong thiên hạ có rất nhiều môn phái, chưa từng thấy kiếm pháp của một nhà thì đâu có gì là lạ”.

Không ngờ câu nói tiếp theo của sư phụ đã khiến cho Vân Lối thất kinh, sư phụ nàng nói rằng: “Đó chính là kiếm pháp của phái chúng ta!”

Dưới ánh nến, tựa như vẻ mặt tiếc nuối của sư phụ hiện ra trước mặt nàng. Nàng tiếp tục suy nghĩ.

Lúc đó mình cảm thấy rất kỳ lạ, liền hỏi sư phụ. Sư phụ bảo: “Con không biết rằng, những điều con học tuy cũng có thể trở thành một phái, nhưng nói thực, chỉ là nửa bộ kiếm pháp của bổn môn mà thôí. Mình hỏi tiếp thì mới biết té ra sư tổ Huyền Cơ Dật Sĩ tính tình kỳ quặc, ông ta hiểu biết rộng rãi, nhưng điều đắc ý nhất là đã sáng tạo ra hai bộ kiếm pháp khắc nhau, một bộ gọi là Vạn lưu triều hải Quy Nguyên kiếm pháp, một bộ gọi là Bách Biến Âm Dương Huyền Cơ kiếm pháp, sư phụ và sư bá mỗi người đều học một bộ kiếm pháp, thật ra chỉ là nửa bộ. Sư tổ nói: “Hai bộ kiếm pháp này là tuyệt học của muôn đời, không thể truyền cho một người. Có thể nói Quy Nguyên kiếm pháp như ngọa long, Huyền Cơ kiếm pháp như phượng hoàng, ngọa long và phượng hoàng không thể cùng một chủ, nếu cùng một chủ sẽ gây họa”. Cho nên nghiêm cầm hai người không được tự tiện truyền riêng cho nhau!”

Vân Lối đang suy nghĩ xuất thần, đột nhiên nghe Trương Đan Phong cười ha hả, Hắc Ma Ha kêu lớn một tiếng!

Vân Lối bị cắt đứt luồng suy nghĩ, ngẩng đầu lên nhìn, té ra Trương Đan Phong đã chạm với Hắc Ma Ha một chiêu, Hắc Ma Ha quét ngang cây trượng tới, không ngờ quét không trúng, ngược lại suýt nữa bị Trương Đan Phong đâm vào be sườn. Sau khi hai người đổi nhau chiêu ấy, không ai dám đánh liều tiến tới cho nên tiếp tục giằng co.

Kiếm phong vù vù, ánh đuốc chao đảo, Vân Lối đột nhiên thầm nhủ: “Chả lẽ bộ kiếm pháp này của Trương Đan Phong chính là loại kiếm pháp mà sư phụ của mình chưa từng thấy? Chả lẽ y là đồ đệ của tam sư bá ở Mông Cổ? Nhưng nhìn công lực và kiếm pháp của y rất thâm hậu, dẫu được danh sự truyền thụ cũng phải rèn luyện trên mười năm, tam sư bá một lòng báo thù cho gia gia, không thể nào vừa đến Mông Cổ đã lập tức nhận đồ đề, chuyên tâm truyền thụ võ công cho y”.

Nàng nhớ lại bức thư của đại sư bá Đổng Nhạc gởi cho Kim Đao trại chủ Châu Kiện.

Vả lại, nghe nói sư bá đã bị kẻ địch bắt sống, giam lỏng trong cung cấm, càng không thể nào thu nhận đồ đệ trong hoàng cung Mông Cổ, dù cho lùi một bước để tiến, thu nhận đồ đệ cũng không nhất thiết phải thu người Hán. Chuyện này như thế nào đây?

Vân Lối suy nghĩ mãi mà không ra. Nàng lại nhủ rằng: “Sư phụ của mình thường hay khen bản lĩnh của tam sư bá, bảo rằng người nói thì làm được, đã chịu hứa sẽ báo thù cho gia gia, chắc chắn sẽ làm được, vả lại không cần đến mười năm. Sư phụ không ngờ rằng Trương Tôn Châu vẫn nắm quyền lớn ở Mông Cổ, còn tam sư bá thì không biết sống chết! Ôi, sư phụ, người thật đáng thương!” Trong lòng hiện lên vẻ mặt của sư phụ trong đêm tiễn đưa. Tửu lượng của sư phụ vốn rất cao, nhưng đêm ấy uống vài chén thì đã say. Đột nhiên bà ta kéo tay áo lên cao, chỉ thấy cánh tay có vết kiếm ngang dọc, thì ra đó là dấu một bông hoa hồng. Sư phụ nói rằng: “Lối nhi, một người không nên quá ngang ngược, nếu ngang ngược thì làm hỏng chuyện, sau đó hối hận cũng đã muộn. Mười hai năm trước, ta đã đuổi Tạ sư bá của con, sau này mỗi đêm trừ tịch ta đều đau lòng như cắt, nén không được nên rút Thanh minh bảo kiếm vạch lên cánh tay, ha ha, đây quả thực là một cách hay, cánh tay tuy đau, nhưng nỗi đau khổ trong lòng đã giảm bớt. Mỗi lần ta vạch là một cánh hoa, con xem đây, cánh hoa hồng đẫm máu của ta có đẹp hay không?”

Vân Lối đếm lại thì đúng là mười hai cánh hoa, nàng bất giác run người. Chỉ nghe sư phụ lại tiếp tục nói: “Con đã ở đây mười năm, nhưng chưa bao giờ nghe ta kể chuyện này. Con có biết rằng mười ba năm trước, ta cũng giống như con, là một thiếu nữ trẻ tuổi xinh xắn, nhưng ta ngang ngạnh hơn con nhiều, đối với những chuyện mình không biết thì tìm mọi cách để biết. Sư tổ của con nghiêm cấm bọn ta truyền riêng võ nghệ, cho nên khi luyện kiếm thì ngăn cấm đến gần, sư tổ càng nghiêm ta càng hiếu kỳ, Thiên Hoa và ta tình như huynh muội, thế nhưng ở chuyện này thì không bao giờ lơi lỏng, chẳng hề tiết lộ cho nhau. Sư tổ của con thu nhận năm đồ đệ, ngoài cha của con là Vân Đăng học nghệ chưa xong đã đến Mông Cổ, bốn người chúng ta mỗi người đều học một môn võ nghệ, sau khi thành tài đều có thể tự lập môn hộ,ï Thiên Hoa và ta qua lại thân thiết nhất, ta đã nhiều lần ép ông ta, ông ta không chịu tiết lộ kiếm pháp đã học, thật ra ta cũng không phải có lòng muốn học kiếm pháp của ông ta, chỉ là muốn mở rộng tầm mắt mà thôi. Ông ta bình thường rất nuông chìu ta, nhưng khi nói đến kiếm pháp của mỗi người thì lại im lặng không nói. Đêm trừ tịch năm nọ, ông ta lên núi Tiểu Hàn thăm ta, ta lại buộc ông thi triển kiếm pháp, ông ta cũng giống như trước, chỉ cười mà không nói. Ta tức giận mắng rằng: “Té ra bình thường huynh bảo yêu mến tôi, toàn là giả dối”. Ông ta nghe thế thì sắc mặt tái nhợt, môi mấp máy, nhưng vẫn nói không ra lời. Ta rút thanh kiếm, lập tức đâm thẳng tới trước ngực ông ta. Ta vốn buộng ông ta dùng kiếm chống đỡ, để xem thử kiếm pháp mà ông ta đã học, nào ngờ ông ta không hề chống đỡ, ta đâm tới một kiếm, thu chiêu không kịp, mũi kiếm vạch một đường dài trên tay ông ta, mau tươi nhỏ thành từng giọt xuống tuyết, tựa như trên viên bảo ngọc có chạm đậu tượng tư. Ta không ngờ ông là như thế, cầm kiếm đứng sững sờ ở đấy, một lúc sau chẳng nói ra lời. Ông ta đột nhiên che mặt kêu lên một tiếng, cũng không thèm băng bó vết thương rồi lướt nhanh như cơn gió. Mấy ngày hôm sau, sư tổ của con đích thân đến núi Tiểu Hàn, nổi trận lôi đình, suýt nữa đã giết chết ta, may mà có đại sư huynh cùng đến cầu xin, kết quả đã được tha mạng, nhưng trừng phạt ta ở núi Tiểu Hàn Diện Bích hối lỗi mười lăm năm. Trong mười lăm đó không được xuống núi một bước, vả lại còn buộc ta trong mười lăm năm phải làm hai chuyện tốt, một là luyện thành hai môn võ nghệ khó luyện nhất; hai là phải dạy được một đồ đệ tinh thông Bách Biến Huyền Cơ kiếm pháp, sau đó trao kiếm Thanh minh cho nó. Giờ đây mười hai năm đã trôi qua, hai môn võ công ta vẫn chưa luyện thành, nhưng đã dạy xong một đồ đệ tinh thông Huyền Cơ kiếm pháp”.

Vân Lối nghe xong mới biết Phi Thiên Long Nữ Diệp Doanh Doanh thu mình là học trò vốn là có duyên cớ. Chỉ nghe sư phụ lại tiếp tục nói: “Đại sư huynh Đổng Nhạc cũng rất tốt với ta, ba năm trước khi sự việc này xảy ra, ông đã phụng lên sư tổ đến biên giới Mông Cổ và Tây Tạng để làm một chuyện, lúc đó vừa từ Tây Tạng trở về. không bao lâu sau lại ra đi, trước khi ra đi đã đến gặp ta, bảo ta yên lòng luyện võ công ở núi Tiểu Hàn, bảo rằng có lẽ lần này vì họa mà được phúc. Lại hỏi ta: “Muội có biết sư phụ tại sao đã nghiêm cấm chúng ta truyền riêng võ công cho nhau không, lần này sao lại tức giận như thế?” Ta bảo: “Sư phụ hành sự chẳng ai hiểu được, muội làm sao biết được dụng ý của người? Song có một lần muội nghe người nói rằng, người đã xem hai bộ kiếm pháp này như ngọa long và phụng sồ, không thể ở cùng một chủ, về cùng một chủ sẽ có họa xảy ra. Muội cũng không hiểu tại sao”. Đại sư huynh cười rằng: “Muội có biết rằng hơn hai mươi năm trước, sư phụ đã từng tranh giành chức Minh chủ võ lâm với một ma đầu, đã đấu ba ngày ba đêm với y trên đỉnh Nga Mi không phân thắng bại được hay không?” Ta nói: “Muội biết”. Ông lại nói: “Ma đầu ấy là Thượng Quang Thiên Dã, vốn là một đại đạo trong chốn lục lâm, sau trận chiến ấy đột nhiên đã mất tích, không biết trốn ở nơi nào. Hơn hai mươi năm nay sư phụ không yên tâm, ta ra đi là phụng lệnh sư phụ dò hỏi tin tức của người này”. Ta lại hỏi: “Tên ác ma ấy lợi hại như thế, huynh đi dò thám tin tức, nếu bị y biết thì làm thế nào?” Đại sư huynh nói: “Tên ác ma ấy và sư phụ của chúng ta cùng một thời với nhau, lại rất tự phụ, dù cho có biết cũng sẽ không làm khó hạng tiểu bối chúng ta”. Ta nghe ông nói như thế, lúc này mới yên tâm, nhưng vẫn không biết chuyện này có liên quan gì đến việc sư phụ không cho phép bọn ta truyền riêng kiếm pháp cho nhau, thế là liền hỏi đại sư huynh, đại sư huynh cười rằng: “Ta đoán rằng dụng ý của sư phụ là muốn muội và Thiên Hoa đối phó với tên ma đầu ấy, để tên ma đầu ấy bại trong tay của các người khiến cho anh hùng trong thiên hạ đều biết rằng, không cần người đích thân ra tay, đồ đệ của người vẫn có thể làm được”. Ta nghe thế thì giật mình, nói: “Võ công của chúng ta so với sư phụ chẳng khác gì đom đóm so với mặt trời mặt trăng. Sư phụ không thể thắng nổi đại ma đầu ấy, bảo chúng ta đi chẳng phải sẽ chịu chết hay sao? Sư huynh, huynh không phải đùa với muội chứ?” Đại sư huynh cười lớn: “Sư phụ nếu không nắm chắc, làm sao có thể đưa các người vào chỗ chết, muội vốn rất thông minh, tại sao cũng không thể đoán ra được chuyện này?” Ta suy nghĩ mãi mà không hiểu, liền bảo đoán không được. Đại sư huynh nói: “Sư phụ đã tốn công sức của nửa đời để tìm hiểu bí mất kiếm thuật của trăm nhà để sáng tạo ra hai bộ Quy Nguyên kiếm pháp và Huyền Cơ kiếm pháp. Hai bộ kiếm pháp này chỉ cần học được một sẽ xưng bá giang hồ, nếu song kiếm hợp bích thì trong thiên hạ không ai địch nổi! Điều kỳ diệu hơn là hai bộ kiếm pháp này vốn tương phản tương thành. Không cần phải tập luyện trước với đối phương mà khi sử dụng tựa nhiên sẽ kín kẽ như áo trời, hô ứng lẫn nhau. Cho nên ta đoán sư phụ không cho các người biết cả hai bộ kiếm pháp chắc chắn có hai lý do, một là sợ các người sau khi biết bộ kiếm pháp còn lại sẽ phân tâm, len lén học lẫn nhau, ta biết rằng một người sức lực có hạn, hai bộ kiếm pháp đều phức tạp vô cùng, chỉ học một bộ thôi cũng đã phải mất nhiều công sức, tốn từ mười năm trở lên, nếu học cả hai bộ thì chỉ e khó đạt đến đỉnh cao. Vả lại hai bộ kiếm pháp này phải có hai người sử dụng mới có thể phát huy sở trường, cho nên thực tế không cần phải học cả hai bộ. Hai là tên Thượng Quang Thiên Dã ấy, bản lĩnh quả thật đã siêu phàm, sư phụ tuy muốn khắc chế kiếm pháp của y, nhưng sợ y biết trước”. Ta vừa nghe đại sư huynh nói xong thì lập tức hiểu ra sư phụ có lẽ vì sợ bọn ta trẻ tuổi hiếu sự, nếu biết cả hai bộ kiếm pháp này hợp lại thì thiên hạ không ai địch nổi sẽ gây ra họa, rồi để lộ ra ngoài, lúc đó Thượng Quang Thiên Dã sẽ biết được, cho nên đề phòng trước. đại sư huynh nói xong, hôm sau liền ra đi. Hai năm sau, Thiên Hoa cũng đi Mông Cổ, ta tuy biết bí mật song kiếm hợp bích, nhưng chưa bao giờ thử qua, Quy Nguyên kiếm pháp mà Thiên Hoa đã học, ta cũng chưa thấy qua một chiêu nửa thức”.

Câu chuyện của Phi Thiên Long Nữ Diệp Doanh Doanh lướt qua trong đầu Vân Lối nhanh như điện chớp, lúc này nàng mới thầm nhủ: “Nếu gã ấy đang sdu Quy Nguyên kiếm pháp, vậy mình ra tay há chẳng phải sẽ lập tức khắc chế được kẻ địch hay sao?”

Chợt nghe Hắc Ma Ha lại kêu lớn một tiếng, Trương Đan Phong hú dài một tiếng, khi ngẩng đầu lên chỉ thấy trong trường đã thay đổi. Hắc Ma Ha không cần tấn công dữ dội như trước nữa, chỉ thấy y sử dụng cây lục ngọc trượng tựa như rất mất sức, Trương Đan Phong giơ ngang kiếm đỡ trước ngực, sắc mặt ngưng trọng, tựa như tập trung tinh thần vào đầu trượng của đối phương, cứ cách một lúc lại đột nhiên đánh ra một kiếm. Hai người xuất chiêu đều chậm chạp, xem ra tựa như sau cơn mưa thì trời lại yên bình, thực ra cả hai đều đang đấu nội công thượng thừa, mỗi chiêu mỗi thức đều ẩn chứa sát cơ vô hạn. Kiếm pháp của Trương Đan Phong tuy tinh diệu, nhưng kiếm quang không thể nào dồn vào luồng hàn quang màu xanh ngọc, Vân Lối vừa nhìn thì biết chân lực nội gia của chàng kém hơn đối phương một bậc, chỉ có thể chống đỡ mà thôi. Lúc này mặt trời đã lên cao, cánh cửa mộ sau khi bị Trương Đan Phong đánh vỡ vẫn chưa lắp lại, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào. Ánh sáng chiếu lên mặt Trương Đan Phong khiến cho chàng càng thêm bất lợi, chỉ thấy Hắc Ma Ha càng lúc càng dồn tới, y múa tít cây ngọc trượng, mỗi chiêu phát ra đều mạnh mẽ như sấm nổ. Luồng kiếm quang của Trương Đan Phong càng lúc càng thu nhỏ lại, dần dần chỉ xoay tít trên đỉnh đầu, Hắc Ma Ha quát lớn một tiếng, cây trượng bộ xuống đầu Trương Đan Phong.

Vân Lối kêu lên: “Không xong!” Rồi nàng không kịp suy nghĩ, vội vàng phóng ba mảnh Mai Hoa Hồ Điệp tiêu ra. Trương Đan Phong kêu lớn: “Hiền đệ chạy mau!”

Chỉ thấy phi tiêu phóng ra như điện, nhưng vẫn mất hút như đá rơi xuống biển chẳng còn tung tích, té ra đã bị luồng kình phong của trượng và kiếm đánh vỡ. Nói thì chậm, nhưng sự việc diễn ra rất nhanh, Bạch Ma Ha vốn đang vận kình chờ đợi cười lên điên cuồng, phóng vọt người lên, tay trái vung ra, chụp xuống đầu Vân Lối. Vân Lối lật tay đánh một kiếm, đột nhiên cảm thấy be sườn tê rần, nàng vội vàng phóng ngựa lướt ra mấy trượng, hít một hơi, thanh kiếm chém ngược lại, chỉ thấy trên tay Bạch Ma Ha đã có thêm một cây bạch ngọc trượng, té ra lúc nãy hai người đổi một chiêu, Bạch Ma Ha không biết thanh kiếm của Vân Lối là bảo kiếm, đã bị cây Thanh Minh kiếm chém trúng một mảng thịt trên vai, tuy khinh công của Vân Lối đã rất tinh diệu, nhưng cũng bị cạnh bàn tay của y quét trúng huyệt Tất Tông ở phía sau lưng, may mà hai người đều né tránh kình lực của đối phương, cho nên cả hai đều bị thương rất nhẹ, nếu không đã mất mạng ngay tại chỗ.

Bạch Ma Ha không dám coi thường, rút cây ngọc trượng đối phó với thanh bảo kiếm của Vân Lối. Cây ngọc trượng của Bạch Ma Ha và cây lục trượng của Hắc Ma Ha đều được chế tạo bởi loại bảo ngọc chỉ có ở Thiên Trúc, cứng rắn như sắt đá. Công lực Bạch Ma Ha hơn hẳn Vân Lối, y quét tới một trượng tựa như sấm sét, Vân Lối nào dám chống đỡ, nàng vội vàng đánh ra một chiêu Ngọc Nữ Đầu Thoa né tránh trượng phong, lách người chém kiếm tới. Bạch Ma Ha quả nhiên rất lợi hại, y vung cây ngọc trượng vù một tiếng, kéo cả người lẫn kiếm của Vân Lối vào trong luồng trượng ảnh của mình. Cây bạch ngọc trượng dài đến bảy thước dài đến bảy thước khi múa ra thì trong vòng một trượng toàn là kình lực của y, Vân Lối thi triển khinh công xuyên qua lướt lại trong màn trượng ảnh kiếm phong, nàng biết mình đang gặp nguy hiểm.

Vân Lối đột nhiên ra tay khiến Trương Đan Phong bất ngờ. Té ra công lực của chàng tuy kém Hắc Ma Ha một bậc, nhờ vào bộ kiếm pháp tinh diệu cho nên có thể tự bảo vệ được, lúc nãy chàng thu nhỏ vòng kiếm quang chính là vì muốn vận dụng lực thanh bảo kiếm để phối hợp với nội công thượng thừa giành lấy ưu thế, Thiên Ma trượng pháp của Hắc Ma Ha tuy lợi hại, nhưng cũng không thể làm gì được chàng. Hai người tỉ thí suốt đêm, tưởng rằng sẽ hòa nhau, với những kẻ có tên tuổi như Hắc Bạch Ma Ha mà chàng có thể ngang tài ngang sức với họ, họ đã phải nhận thua, không ngờ Vân Lối lại đột nhiên xen vào, dụ cho Bạch Ma Ha vào vòng chiến, đất bằng đã dậy sấm, Trương Đan Phong thầm kêu khổ: “Mình dùng một đối một, còn chịu thua thiệt, võ công của Vân Lối kém hơn cả mình, chẳng phải là đối thủ của Bạch Ma Ha”. Nhưng thấy Vân Lối nguy cấp, trong lòng nôn nóng, vội vàng đâm ra hai kiếm, chuyển thủ thành công, lướt người ra, tuy biết hai người liên thủ cũng chẳng phải là kẻ địch của Hắc Bạch Ma Ha, nhưng việc đã đến nước này, cũng đành chịu, lòng nhủ rằng: “Vân Lối mạo hiểm cho mình, mình bỏ đi sao đành”. Trương Đan Phong lướt cả người lẫn kiếm tới cứu Vân Lối. Hắc Ma Ha cười ha hả rồi nói: “Hai tên nhãi nhép nhà ngươi muốn bỏ chạy ư?” Y đang khổ sở vì không thể thắng được Trương Đan Phong, trong lòng đang lo lắng, chợt thấy Vân Lối ra tay, y vừa nhìn thì đã biết kiếm pháp của Vân Lối tuy tinh diệu, công lực vẫn còn kém, với sức của hai huynh đệ thì có thể nắm chắc phần thắng, thế rồi cây ngọc trượng chĩa về phía trước, đâm thẳng vào bối tâm của Trương Đan Phong. Chợt thấy Vân Lối kêu lên một tiếng, hai kiếm hợp lại, luồng kiếm quang chợt mở ra, đâm soạt soạt hai kiếm, gót chân trái và phải của Bạch Ma Ha mỗi bên đều trúng một kiếm, cây lục ngọc trượng của Hắc Ma Ha đâm vào, bị hai kiếm cuộn lại rồi ném ra. Hắc Ma Ha thất kinh kêu lên: “Ra khỏi phân ly, đạp vào vị đòi, vây bọn chúng!”

Thiên Ma trượng pháp của Hắc Bạch Ma Ha cũng là loại trượng pháp có thể phối hợp lẫn nhau, hai người đầu đuôi tiếp ứng với nhau, đạp vào phương vị của bát quái, tựa như bày một trận hợp vây, dù kẻ địch mạnh đến bao nhiêu cũng không thể xông ra nổi. Hắc Bạch Ma Ha là anh em song sinh, tâm ý tương thông, chiến lược vừa định, Bạch Ma Ha cố nén đau, vung trượng xéo một vòng, phối hợp với Hắc Ma Ha, tấn công về phía hai người Trương, Vân, sử dụng toàn những chiêu sát thủ! Bốn khách thương người Hán đứng một bên cũng phải hoa mắt!

Vân Lối đâm ra một kiếm, Hắc Ma Ha hất ngang qua một trượng, đó chính là chiêu Thiên Ma Hiến Tửu, đầu trượng hất lên hàm của kẻ địch, thân trượng thì đánh vào cổ tay của kẻ địch, chui trượng thì lại đè vào huyệt Đan Điền của kẻ địch, một chiêu đánh ra ba thức, quả thực lợi hại vô cùng. Bách Biến Huyền Cơ kiếm pháp của Vân Lối có sở trường kỳ dị biến hóa, nàng lách người đánh ra một chiêu Đảo Chuyển Âm Dương, mũi kiếm từ dưới đâm lên, chém ngược lại, né tránh cú hất của cây ngọc trượng, lại buộc Hắc Ma Ha nghiêng thân trượng, theo lẽ có thể giải khai được chiêu số đè huyệt của chui trượng. Nhưng Hắc Ma Ha là kẻ đã trải qua hàng trăm trận chiến, công lực lại thâm hậu, thấy kiếm pháp của Vân Lối tinh diệu, liệu rằng hai thức trước chắc chắn sẽ vô hiệu, đột nhiên tăng lực cho đòn đánh ở phía sau, xoay ngang cây ngọc trượng, chui trượng đè mạnh vào, Vân Lối chỉ cảm thấy một luồng kình lực dồn tới, chui trượng đã chạm vào đan điền của mình.

Chợt nghe keng một tiếng, lửa bắn ra tung tóe, Trương Đan Phong đánh một kiếm gạt cây ngọc trượng của Bạch Ma Ha, vẫn còn đà thuận tay quét mũi kiếm tới, lướt tới cổ họng của Hắc Ma Ha. Hắc Ma Ha cảm thấy kiếm khí lạnh lẽo dồn vào đến tận xương cốt, không biết là hư là thực, vội vàng đánh ngược lại một trượng, gạt Vân Lối ra. Hắc Ma Ha ra đòn theo phương vị của bát quái, Bạch Ma Ha đánh ngược lại một trượng, người xoay ngược lại vị càn, Bạch Ma Ha bước xéo qua khương tốn, bạch ngọc trượng cũng chém ra, hai trượng cùng hợp thành một vòng tròn lớn, Trương Đan Phong không kịp biến chiêu, kêu lên: “Không xong!”

Vân Lối đột nhiên đâm một kiếm vào ở giữa, kiếm này đâm rất đúng chỗ, chợt thấy cả hai kiếm chém xéo ra, Bạch Ma Ha né không kịp. Chiêu này nhanh như lửa xẹt điện chớp, không ai có thời gian ngẫm nghĩ, nhưng không ngờ lại phối hợp rất kín kẽ, Vân Lối mừng rỡ kêu lên: “Song kiếm hợp bích quả nhiên vô địch!”

Rồi nàng phóng ra một chiêu, chợt thấy thanh bảo kiếm của Trương Đan Phong cũng chém ra theo hướng ngược lại, cả hai kiếm tựa như song long xuất hải, khiến cho Hắc Bạch Ma Ha phải từng bước thối lui!

Trương Đan Phong vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, liếc nhìn Vân Lối, Vân Lối cười: “Ngươi xem, tên bảo tiêu như ta cũng không tệ chứ! Chúng ta hãy cùng sánh vai tiến lên!”

Nàng đang lúc đắc ý cho nên dùng bừa những tiếng lóng của Châu Sơn Dân đã dạy.

Trương Đan Phong vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, múa kiếm cùng nàng sánh vai tiến lên, Hắc Bạch Ma Ha đã dồn ra hết sức, múa trượng chống cự nhưng không thể nào chặn lại được. Trương Đan Phong cười lớn: “Hay lắm, hay lắm! Hai người chúng ta hợp lại quả nhiên là châu liên bích hợp!” Chàng thuận miệng nói ra toàn những lời hay ho, Vân Lối nghe xong thì bất giác đỏ mặt, nhưng thấy Trương Đan Phong cười lớn rồi múa kiếm đánh tới nhanh như gió, ánh mắt chỉ nhìn Hắc Bạch Ma Ha chứ không để ý đến mình.

Uy lực của song kiếm hợp bích đâu chỉ tăng lên như thế, bộ pháp của Hắc Bạch Ma Ha cũng bị rối loạn, đi chẳng đúng vào phương vị của ngũ môn bát quái nữa, hai người Trương Vân sánh vai xuất kiếm, hoặc cả hai người trước sau đều ra chiêu, hoặc chia nhau đánh hai bên trái phải, hoặc tấn công cả trên lẫn dưới, hết chiêu này đến chiêu khác, thức này nối thức khác, cả hai kiếm múa tít như sóng dồn trên biển lớn. Hắc Bạch Ma Ha tuy kiến thức sâu rộng, nhưng cũng không thể nào hiểu được loại kiếm pháp quái dị này, cả hai người đều hoảng hồn! Lại đánh thêm hai mươi chiêu nữa, Bạch Ma Ha lại trúng một kiếm, Hắc Ma Ha lại bị chém đứt cái vòng vàng cột tóc. Hắc Bạch Ma Ha thở dài kêu lên: “Đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn, thôi đi, thôi đi!” Đột nhiên Bạch Ma Ha nhảy vọt ra khỏi vòng chiến, giơ ngang trượng kêu lên: “Các người đã thắng, nơi này do các người làm chủ!” Rồi hú dài một tiếng, đồng bọn của hai người đều tiu nghỉu, mặt tái như xác chết, chẳng nói một lời, lầm lủi cùng Hắc Bạch Ma Ha bước ra khỏi cửa mộ.

Trương Đan Phong cười rằng: “Hai huynh đệ này quả thật là quái nhân, nhưng cũng coi như là bậc anh hùng. Này, tiểu huynh đệ....” Đang định lên tiếng hỏi Vân Lối, chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa hí, con Chiếu dạ sư tử mã và con ngựa bờm đỏ của Vân Lối lần lượt chạy vào. Té ra Hắc Bạch Ma Ha đã giữ lời hứa, trị thương cho hai con ngựa rồi thả về, con ngựa trắng chạy vào trước, miệng thì hí vang trời, cổ thì cọ vào người chủ nhân, tựa như rất vui mừng, Vân Lối cũng vuốt ve con ngựa của mình nói: “Ngựa ơi, ngươi đã dạy cho tên quái vật ấy một bài học. Này đại cạ... đang định hỏi lai lịch kiếm pháp của Trương Đan Phong, nàng chợt cảm thấy ngực đau nhói, nói không ra lời, Trương Đan Phong liếc nhìn Vân Lối, đột nhiên kêu lên: “Tiểu huynh đệ, hình như ngươi đã bị trúng một chưởng của Bạch Ma Ha, đừng lên tiếng...” Vân Lối gật đầu, Trương Đan Phong lại nói: “Hãy mau vận khí hộ Đan Điền, ta sẽ trị giúp cho ngươi, ngươi đã bị thương”. Thế rồi đưa tay về phía trước, Vân Lối đột nhiên xoay người, lắc đầu, ngồi phịch xuống đất, phun ra một ngụm máu rồi nói: “Không cần, tôi tự chữa trị cho mình”.

Trương Đan Phong ngẩn người ra, đột nhiên cười rằng: “Tiểu huynh đệ, lúc này cần gì phải kiêng dè như thế? Ta đã thấy từ lâu rồi”.

Vân Lối đỏ mặt, mở dây cột tóc, suối tóc mềm mại buông dài, nàng e thẹn nói: “Tôi không nên giấu đại ca, tôi là một thiếu nữ”.

Trương Đan Phong nói: “Hợp nhau thì kết làm tri kỷ, cần gì phải phân biệt nam hay nữ. Này, tiểu huynh đệ, chả lẽ đệ cũng suy nghĩ như người ở thế tục hay sao?”

Vân Lối nhìn thấy chàng khí chất sáng sủa, phong thái nho nhã, cũng bất giác không còn để ý đến chuyện nam nữ nữa, thế rồi mỉm cười nói: “Nhưng chúng ta đều không biết lai lịch của nhau!”

Chợt thấy Trương Đan Phong mỉm cười, xua tay rằng: “Tiểu huynh đệ, ta biết trong lòng đệ có nhiều nỗi nghi ngờ, ta cũng có nhiều điều muốn hỏi, nhưng nay đệ đã bị thương, không tiện nói nhiều, lâu thì năm ngày, mau thì ba ngày, sau khi vết thương của đệ đã khỏi, chúng ta lại sẽ nói cho thỏa thích!”

Vân Lối cúi đầu không nói, chỉ thấy Trương Đan Phong lại mỉm cười, nhìn Vân Lối nói: “Tiểu huynh đệ, vết thương của đệ như thế nào, nên trị như thế nào, ta sẽ cho đệ biết”.

Vân Lối nở nụ cười, nàng gật nhẹ đầu rồi nghĩ bụng: “Vị đại ca này thật mau mắn, rất hợp ý mình, nhưng y tại sao lại cười như thế?”

Chỉ nghe Trương Đan Phong tiếp tục nói: “Ta thấy vết thương của ngươi là do Bạch Ma Ha đã dùng chưởng lực chấn động nội tạng, công lực của ngươi không thể phát tán, cho nên cảm thấy rất nóng nực, sắc mặt đỏ ửng, nếu không kịp thời chữa trị thì nguyên khí sẽ bị tổn hao, không chết cũng trở thành tàn phế. May mà nội công của đệ vững chắc, ta sẽ dùng công lực giúp đệ đánh thông ba kinh mạch âm và ba kinh mạch dương, khí ở lục phủ ngũ tạng sẽ được thông suốt, tinh thần sẽ khỏe lại ngay”.

Thiên kinh mạch trong sách Linh khu của y học cổ đại Trung Quốc có học thuyết mười hai kinh và mười lăm lạc, xem ra tựa như ảo diệu vô lý, nhưng thực sự rất có lý, cái gọi là kinh lạc chính là con đường liên lạc mà khí huyết vận hành, khí huyết thông suốt thì đương nhiên chẳng có bệnh tật gì. (Những người học võ ít nhiều đều hiểu trung y, Vân Lối nghe chàng ta thao thao bất tuyệt đàm luận y lý, trong lòng cười thầm: “Vị đại ca này thật thú vị, hai ngày trước thấy y lúc khóc lúc cười, chỉ tưởng rằng y là một cuồng sĩ rong chơi giữa chốn nhân gian, nay thấy y lại đàm luận y đạo tựa như một nho y bác học”.

Trương Đan Phong nói xong y lý, ngừng một hồi thì lại đột nhiên cười, nhưng ta lại yêu cầu đệ một chuyện!”

Vân Lối hạ giọng nói: “Đại ca hãy nói”.

Trương Đan Phong cười rằng: “Tiểu huynh đệ, khi ta trị thương cho đệ, đệ phải quên ta là một nam tử, ta cũng quên đệ là một nữ tử, đệ làm có được không?”

Sau khi Vân Lối đã để lộ mặt thật, Trương Đan Phong vẫn cứ gọi nàng là huynh đệ, mà lại nói rất tự nhiên, trong lòng thực sự đã quên nàng là một thiếu nữ. Vân Lối vốn là người hồn nhiên, thấy chàng như thế thì cũng chẳng lo lắng gì, thế rồi nghĩ bụng: “Y giúp mình đả thông kinh mạch, đương nhiên phải đụng chạm tay chân, mình và y kết bái huynh đệ, tình như tay chân, điều đó có cần nói hay không?” Thế rồi mỉm cười, ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy ánh mắt của Trương Đan Phong như nước thu hợn sóng, tựa như cười mà không phải cười, trong lòng lại xao xuyến, mặt hơi đỏ. Trương Đan Phong nhìn xung quanh rồi cười rằng: “Trong cổ mộ này tựa như đào nguyên thế ngoại, rất hợp với việc trị liệu dưỡng thương. Chỉ là hai con ngựa này không nên ở đây”. Thế rồi hú dài một tiếng, vỗ ra một chưởng, con Chiếu dạ sư tử mã tựa như hiểu tâm ý của chủ nhân, lập tức chạy ra ngoài. Con ngựa bờm đỏ của Vân Lối mấy ngày nay đã rất quen thuộc với con Chiếu dạ sư tử mã, cũng chạy theo ra ngoài.

Trương Đan Phong đóng cửa mộ lại, đến khi nhìn kỹ thì thấy ngôi mộ được xây dựa vào núi, trong mộ có sảnh có phòng, là mộ của Tấn vương thời cổ đại. Trương Đan Phong xem xét bốn bức vách, chàng đập đập gõ gõ một hồi rồi cười: “Trong này còn có mật thất”. Thế rồi nhặt một hòn đá, đập vào một cái lỗ ở góc tường rồi xoay, một lát sau vách tường đột nhiên bật ra, bên trong có một cánh cửa ngầm, té ra loại cung điện dưới đất của các bậc đế vương công hầu đều được xây dựng như thế. Bên trong cửa đó và nơi đối xứng với cánh cửa có một bộ phận nhô ra, dùng để kê một phiến đá được chế tạo rất đặc biệt, gọi là “tự lai thạch”, có tác dụng nâng cửa. Thanh “tự lai thạch” này hai đầu hơi rộng, có khắc cánh hoa sen, ở giữa thì hẹp lại, khi đóng cánh cửa đá, đầu trên bức “tự lai thạch” chặn vào bộ phận nhô ra trong cánh cửa, đâu dưới ăn sâu vào một cái máng lõm xuống ở dưới đất bên ngoài cánh cửa, nếu không hiểu nguyên lý này thì dù để như thế nào cánh cửa cũng không bật ra.

Cánh cửa ngầm vừa mở ra, Trương Đan Phong đã đỡ Vân Lối vào bên trong, chợt cảm thấy bên trong sáng bừng, có ghế ngọc và bàn đá, trên bàn bày rất nhiều châu báu. Trương Đan Phong nhíu mày, gạt đống châu báu rơi xuống đất, rồi dùng chân dồn vào góc tường, nói: “Đừng để những thứ này cản trở”. Thế rồi Vân Lối ngồi trên ghế ngọc, cười rằng: “Loại ngọc cổ này mát mẻ, có thể giúp đệ hút nhiệt độc trong người”.

Chàng nhẹ nhàng xoa bóp những chỗ hai mạch âm dương đi ngang qua một hồi, Vân Lối cảm thấy có một luồng khí nóng đánh thẳng vào tim, một lát nữa thì cảm thấy bớt nóng nực, toàn thân mát mẻ. Trương Đan Phong ngừng tay rồi nói: “Kinh mạch dương minh của đệ đã được thông suốt, đệ hãy tự vận khí hành huyết, ngày mai ta sẽ giúp đệ đánh thông kinh mạch thiếu dương”.

Trong căn mật thất còn có rượu ngon, chắc là của Hắc Bạch Ma Ha, Trương Đan Phong uống rượu ăn thịt, đột nhiên cao giọng ca hát. Tiếng ca hát tựa như cười như khóc, tựa như căm hận chiến tranh liên miên. Vân Lối đang vận công, nghe tiếng ca như thế thì giật mình, bất giác buột miệng nói: “Chiến tranh xưa nay là chuyện bi thảm, nhưng nếu bị người Mông Cổ đánh vào, dù nam nữ già trẻ đều cũng phải cầm can qua bảo vệ xã tắc. Những người lập công cho nước nhà cũng là những người bất hũ”.

Trương Đan Phong hơi run rẩy, chén rượu đổ xuống đất, quay đầu lại nói: “Tiểu huynh đệ, hãy mau vận công, đừng lên tiếng. Ta nhất thời quên bẵng nên ca hát điên cuồng, đã kinh động đến đệ”.

Vân Lối hít một hơi, bĩu môi rồi hỏi: “Đại ca, huynh nói xem, lời của tôi có đúng hay không?”

Trương Đan Phong tợp một ngụm rượu rồi nói: “Hay lắm, hay lắm! Thực ra người muốn chiến tranh không phải trăm họ, nếu những bậc hào kiệt không muốn xưng vương xưng đế tranh đoạt giang sơn thì há chẳng tốt hay sao? Này, tiểu huynh đệ, chúng ta đừng bàn luận nữa, đệ hãy mau chuyên tâm vận công”.

Vân Lối thầm nhủ trong lòng: “Vị đại ca này rất tốt, tại sao vừa nhắc đến chuyện chiến tranh giữa Mông Cổ và Trung Quốc thì lại đau đớn như thế? Tại sao?” Những câu hỏi cứ mãi lẩn quẩn trong đầu nàng. Trương Đan Phong chậm rãi bước tới trước mặt nàng, nói: “Tiểu huynh đệ, ta vốn muốn đợi sau khi đệ khỏe thì chúng ta sẽ nói cho thỏa thích, nhưng thấy đệ hình như nếu chưa hiểu rõ thì không thể nào yên lòng vận công được”.

Vân Lối hạ giọng nói: “Đúng thế”.

Trương Đan Phong nói: “Nhưng đệ bị thương nên không thể nào phân tâm nói chuyện được. Chuyện giữa chúng ta không thể nào hiểu rõ trong một giờ nửa khắc được, thế này nhé, đệ cứ yên tâm vận công, sau khi ăn cơm tối, ta sẽ kể cho đệ nghe một câu chuyện, mỗi ngày đệ đều phải ăn cơm tối, theo ta tính, ba ngày sau đệ sẽ khỏe, vậy mỗi ngày ta đều kể cho đệ nghe một câu chuyện. Đến ngày thứ tư, đệ đã khỏe hẳn, chúng ta lại sẽ nói lai lịch của nhau ra. Tiểu huynh đệ, nếu đệ không nghe lời, ta sẽ chẳng kể chuyện cho đệ nghe, nào, bây giờ đệ không được hỏi, hãy mau vận công”.

Ánh mắt của Trương Đan Phong tựa như có một sức mạnh bắt buộc, Vân Lối chỉ cảm thấy, khi mình còn là một đứa trẻ, mỗi đêm mẹ thường hát bài hát thôi miên bằng tiếng Mông Cổ, ánh mắt dịu dàng ấy khiến cho nàng mãi mãi không quên. Ánh mắt của Trương Đan Phong lúc này khiến nàng nhớ đến người mẹ. Nhưng ánh mắt của hai người vừa giống nhau lại vừa khác nhau. Nàng lại nhớ mỗi lần gia gia dạy dỗ nàng đều nhìn nàng với ánh mắt nghiêm khắc, ánh mắt của Trương Đan Phong lại khiến nàng nhớ đến gia gia. Ánh mắt vừa hiền từ vừa nghiêm khắc khiến cho người ta cúi đầu, Vân Lối như cảm thấy bị thôi miên, cõi lòng yên tĩnh trở lại, không lâu sau thì bắt đầu chú ý vận công.

Ngôi cổ mộ này được xây dựng dựa theo núi, một bên của mật thất trong mộ chính là vách núi, vách núi này trơn bóng như kính, trên đỉnh thạch thất còn có lỗ thông gió và thông khí, vách đá đối diện cánh cửa có khảm một cái kính nhỏ, căn mật thất cấu tạo rất đặc biệt, người trong phòng có thể nhìn thấy cảnh vật ở bên ngoài nhờ tấm kính, nhưng người bên ngoài thì không thể nhìn vào bên trong được. Lúc này ánh mặt trời từ lỗ thông gió chiếu vào trong phòng, nhìn bóng nắng dưới đất tựa như đã đến giờ ngọ, bên ngoài đột nhiên có tiếng động, tựa như có người đang đào cửa, cánh cửa mộ ở bên ngoài, đêm qua khi hai phụ nữ người Ba Tư dắt hai người Trương Vân vào bên trong, đã bị hỏng cánh sen trồi lên ở dưới, không còn thanh “tự lai thạch” chặn lại, sau khi người bên ngoài đào đất thì có thể đẩy ra. Màu sắc của tấm kính đồng cũng giống như màu sắc của bức tường, Vân Lối nhìn kỹ lại, bóng người lờ mờ trong tấm kính đồng tựa như rất quen thuộc. Nàng vội vàng lấy tay áo lau tấm kính đồng, nhìn kỹ lại thì kêu lên, thiếu nữ này chẳng phải ai khác, đó chính là con gái của Oanh Thiên Lôi Thạch Anh, Thạch Thúy Phượng.

Chỉ thấy Thạch Thúy Phượng lò dò bước vào, vừa đi vừa kêu: “Vân công tử, Vân công tử!”

Vân Lối thầm cười: “Mình và nàng ta chỉ là một nửa vợ chồng, thế mà nàng lại lo lắng cho mình đến thế”. Ánh sáng trong mộ mờ ảo, Thạch Thúy Phượng bước gần đến thông đạo, khi vào đại sảnh thì nàng đánh đá lửa lên, thấy trong điện có cắm mười hai ngọn đuốc thế là nàng châm lửa từng ngọn, khiến đại sảnh sáng như ban ngày. Tấm kính đồng khảm trong mật thất chiếu rõ bộ mặt của Thạch Thúy Phượng khiến cho Vân Lối thất kinh: “Không gặp mấy ngày mà nàng lại tiều tụy đến thế!” Thạch Thúy Phượng đi quanh trong căn đại sảnh tìm kiếm, đột nhiên nàng ngồi thụp xuống đất. Nàng bật khóc òa lên, té ra nàng đã phát hiện một vệt máu, đó chính là máu của Bạch Ma Ha, nhưng nàng lại tưởng là của Vân Lối. Hắc Bạch Ma Ha là khách hàng quen thuộc của cha nàng, nàng đương nhiên biết sự lợi hại của hai tên ma đầu này, thế rồi nghĩ bụng: “Vân tường công đã bị Hắc Bạch Ma Ha đánh bị thương, chỉ e không chết cũng tàn phế”. Cho nên khóc òa lên.

Vân Lối thấy nàng khóc thê thảm, trong lòng cảm thấy bất nhẫn đứng dậy, định đẩy cửa bước ra, Trương Đan Phong đè nàng xuống rồi nói: “Dù bên ngoài thế nào, đệ cũng đừng lên tiếng”. Thế rồi đè vào lòng bàn tay nàng, lại giúp nàng vận khí hành huyết. Chỉ thấy Thạch Thúy Phượng khóc một hồi, lấy ra một cây san hô đặt trên bàn, đó chính là sính lễ Vân Lối tặng cho nàng, rồi lại khóc một hồi, kêu lên: “Đệ đệ, đệ đệ, ta thật khổ!”

Vân Lối kêu thầm trong lòng: “Tỷ tỷ, tôi vẫn chưa chết, tôi vẫn chưa chết!”

Nhưng Thạch Thúy Phượng nào nghe thấy, nàng lại vừa khóc vừa kêu, đột nhiên rút thanh bội đao ra, chém hờ trong không trung rồi nói: “Lôi đệ, dù hai tên ma đầu ấy có lợi hại đến mức nào, ta cũng sẽ bảo cha báo thù cho đệ”.

Thế rồi nàng xoay người bước ra, đi được mấy bước thì đột nhiên ngồi thụp xuống, nhặt hai mảnh kim hoàn ở dưới đất lên, đó chính là vòng kim hoàn buộc tóc của Hắc Ma Ha, trong lúc kịch chiến đã bị Trương Đan Phong chém đứt. Thạch Thúy Phượng lẩm bẩm: “Ồ, té ra hai tên ma đầu ấy không gạt mình!” Thế rồi lật qua lật lại một hồi, nàng đứng thững người ra.

Té ra sau khi Vân Lối bỏ đi, Thạch Thúy Phượng cỡi ngựa đuổi theo, giữa đường thì gặp Hắc Bạch Ma Ha, hỏi thăm bọn họ có gặp Vân Lối hay không, Hắc Bạch Ma Ha hỏi hình dạng của Vân Lối, cười lạnh rồi hỏi: “Y là gì của ngươi?”

Thạch Thúy Phượng cứ nói thực ra, Hắc Ma Ha hừm một tiếng rồi nói: “Cháu gái tốt, cháu đã lấy được hảo phu tế, công phu của y cũng không tệ!”

Thạch Thúy Phượng ngạc nhiên hỏi: “Sao ngài lại biết?”

Hắc Ma Ha lạnh lùng nói: “Y đã giành cho ngươi rất nhiều châu báu, tất cả mọi thứ của ta đều thua cho y. Oanh Thiên Lôi có một nữ tế giỏi như thế, đương nhiên vui vẻ rửa tay gác kiếm không cần phải làm gì nữa”.

Thạch Thúy Phượng thất kinh, nói: “Cái gì, y dám động thủ với ngài?”

Hắc Bạch Ma Ha tức giận nhìn nhau, tưởng rằng Thạch Thúy Phượng có ý trêu chọc bọn họ, thế là không thèm trả lời mà bỏ đi.

Thạch Thúy Phượng biết cổ mộ có giấu châu báu của Hắc Bạch Ma Ha, nàng vội vàng chạy tới, nàng nằm mơ cũng không ngờ rằng Vân Lối đã đánh bại Hắc Bạch Ma Ha, lúc này đã phát hiện vòng kim hoàn bị chém đứt của Hắc Ma Ha, trong lòng nửa tin nửa ngờ, nàng thầm nhủ: “Với bản lĩnh của Hắc Bạch Ma Ha, chẳng thể nào thua Vân Lối. Nhưng Hắc Bạch Ma Ha là kẻ có tên tuổi như thế, cũng không đến nỗi nói dối, chuyện này thế nào đây, chả lẽ có người khác đả thương Lối đệ?”

Nàng tưởng rằng máu ở dưới đất là của Vân Lối. Đang suy nghĩ, chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa hí, chỉ thấy một thiếu niên dắt một thớt ngựa hồng bước vào trong mộ, đây chính là con chiến mã bờm đỏ của Vân Lối.

Vân Lối vừa nhìn thì suýt nữa đã kêu lên thành tiếng!

Thiếu niên ấy chẳng ai khác chính là con trai của Kim Đao trại chủ Châu Sơn Dân, y được lệnh của cha, vào Trung thổ làm một chuyện, đồng thời dò hỏi tông tích của Vân Lối. Đi ngang qua lúc này, đã thấy con ngựa hồng của Vân Lối, con chiến mã bờm đỏ này vốn là ngựa của Châu Sơn Dân, do đó nó đã dắt y vào trong mộ.

Con ngựa hồng hí lên mừng rỡ, tựa như bảo với chủ cũ rằng Vân Lối đang ở đây, Châu Sơn Dân đang thầm mừng rỡ, đột nhiên nhớ lại rằng Hắc Bạch Ma Ha thường thích ở trong cổ mộ, bất giác người toát mồ hôi. Khi bước vào cửa mộ, thấy đèn đuốc sáng choang, y càng thất kinh hơn, toan kêu lên thành tiếng, chợt thấy có một phụ nữ đầu tóc rối bời, từ trong góc tối nhảy vọt ra, một đao chém tới. Té ra Thạch Thúy Phượng khóc cả buổi, thần trí đã hôn loạn, thấy con ngựa bờm đỏ của Vân Lối thì tưởng rằng Châu Sơn Dân chính là người ám hại Vân Lối.

Nhát đao của Thạch Thúy Phượng rất mạnh, Châu Sơn Dân hoảng hồn, vội vàng tránh sang một bên, Thạch Thúy Phượng lại chém tới nhát đao thứ hai, Châu Sơn Dân rút thanh yêu đao gạt nàng ra, chỉ thấy Thạch Thúy Phượng tựa như điên cuồng, liên tiếp chém tới từng đao, Châu Sơn Dân kêu lên: “Chúng ta không thù không oán, sao cô nương lại đánh lén?”

Thạch Thúy Phượng đánh ra liên tục bốn đao, nàng chợt nhủ: “Bản lĩnh của gã này cũng tương đương mình, sao có thể là đối thủ của Vân Lối?” Thế rồi chém ra hai đao, cao giọng hỏi: “Tên tiểu tử nhà ngươi, hãy mau nói thực con chiến mã bờm đỏ từ đâu mà có?”

Châu Sơn Dân cười ha hả, đột nhiên nhảy vọt ra, vuốt con ngựa hồng, nói: “Con chiến mã bờm đỏ này vốn là của ta, sao cô nương lại hỏi như thế?”

Con chiến mã ấy dựa đầu vào người Châu Sơn Dân rất thân mật, tựa như chứng thực lời nói của Châu Sơn Dân không phải giả.

Thạch Thúy Phượng hừ một tiếng, vung cây cương đao lên, chém được nửa đường thì đột nhiên ngừng lại, nhủ rằng: “Con chiến mã bờm đỏ tính rất hung dữ, làm sao có thể chịu nghe lời y?”

Chỉ thấy Châu Sơn Dân đưa mắt nhìn quanh, đột nhiên thấy trên bàn đá có một cây san hô, sắc mặt thay đổi, chàng nhảy vọt tới, cầm lấy cây san hô, Thạch Thúy Phượng giận dữ quát: “Ngươi làm gì?”

Châu Sơn Dân nói: “Ngươi làm gì thế?”

Thạch Thúy Phượng cười lạnh: “Chả lẽ cây san hô này là của ngươi?”

Châu Sơn Dân lại cười ha hả rồi nói: “Thật không dám giấu, cây san hô này là của tại hạ!” rồi giọng nói chợt thay đổi, chàng gằng giọng hỏi: “Ngươi hãy nói thật, ngươi đã đánh cắp hay cướp cây san hô này?”

Cây san hô này vốn là do Châu Kiện tặng cho Vân Lối, Vân Lối lại tặng cho Thạch Thúy Phượng, Châu Sơn Dân thấy cây san hô nên sinh nghi.

Thạch Thúy Phượng cả giận xông tới, chém vù ra một đao, Châu Sơn Dân trả lại một đao, truyệt chẳng hề khách sáo, kình lực rất lớn, đao của Thạch Thúy Phượng suýt bị đánh bay, nàng vội vàng sử dụng Nhiếp vân bộ pháp xoay người, nhảy vòng ra sau lưng Châu Sơn Dân, Châu Sơn Dân lật tay đánh ra một đao nhưng không quét trúng, cả hai người lập tức xông vào nhau, Vân Lối ở trong mật thất thấy hai người đánh nhau rất hăng, trong lòng rất lo lắng, cho nên không thể nào yên tâm vận khí thổ nạp được, Trương Đan Phong đặt hai chưởng vào lòng bàn tay của Vân Lối, thì thầm nói: “Đừng lo, hai người họ chẳng thắng nhau được. Đệ quen gã nam tử kia?”

Vân Lối gật đầu, chợt nhớ lại Trương Đan Phong đã xé cây Nhật Nguyệt song kỳ, trừng mắt nhìn chàng, khiến cho chàng ngạc nhiên.

Châu Sơn Dân và Thạch Thúy Phượng đánh nhau đến năm mươi chiêu, một người hơn ở đao trầm lực kình, một người thắng ở thân pháp lanh lẹ, quả nhiên cả hai bên chẳng ai thắng ai, Thạch Thúy Phượng chém ra một đao, đột nhiên cao giọng quát hỏi: “Ngươi bảo san hô là của ngươi, vậy có ký hiệu gì?”

Châu Sơn Dân cười ha hả rồi nói: “Chả trách nào ngươi chẳng biết, ngươi hãy xem lại cánh thứ ba của cây san hô ấy có phải có khắc một chữ Châu hay không?”

Thạch Thúy Phượng mấy ngày nay nhìn vật nhớ người, cứ cầm cây san hô ngắm không chỉ trăm lần, cho nên nàng đã phát hiện ra chữ Châu ấy từ lâu, trong lòng cứ mãi hoài nghi, tại sao Vân Lối tặng cho nàng sính lễ lại khắc họ của người khác, Châu Sơn Dân nói như thế, nàng vỡ lẽ ra, rút đao nhảy ra khỏi vòng chiến hỏi: “Này, ngươi có phải là nghĩa huynh của Vân Lối không?”

Châu Sơn Dân ngạc nhiên, cũng rút đao nhảy vọt sang một bên, nói: “Ngươi đã biết ta là nghĩa huynh của Vân Lối, tại sao không biết cây san hô này là do ta tặng cho hắn?”

Thạch Thúy Phượng nhớ lại đêm động phòng, Vân Lối cứ mãi nói về nghĩa huynh của mình, bất giác liếc nhìn Châu Sơn Dân, chỉ cảm thấy Châu Sơn Dân tuy không thanh tú bằng Vân Lối, nhưng có nét rắn rỏi uy võ của người đàn ông. Lúc này chàng cũng đưa mắt nhìn mình cho nên bất giác đỏ mặt. Nàng nhớ lại chuyện đêm ấy, trong lòng thực sự rất tức giận Vân Lối. Châu Sơn Dân nói: “Tên nữ tặc nhà ngươi cũng muốn chiếm đồ của ta hay sao?”

Thạch Thúy Phượng cả giận nói: “Đồ gì của ngươi? Cây san hô này là sính lễ Vân Lối tặng cho ta, nếu không nể mặt ngươi là nghĩa huynh của Vân Lối, ta đã một đao chém chết ngươi!”

Châu Sơn Dân ngạc nhiên, lập tức hỏi: “Sính lễ gì? Vân Lối là người thế nào với ngươi?”

Thạch Thúy Phượng nói: “Y là trượng phu của ta, ta không ngại cho ngươi biết”.

Châu Sơn Dân đột nhiên cười ha hả rồi chợt nghĩ: “Vân Lối cải trang thành nam nhi một mình lên kinh, bí mật thân thế thật sự không thể cho người khác biến, cho nên nàng đã giấu thiếu nữ này, mình không nên vạch mặt thật của nàng ra”. Thế rồi ngừng cười hỏi: “Cô nương, cô tên họ là gì? Thành thân với Vân Lối từ lúc nào?”

Thạch Thúy Phượng đang bực tức, buông đao xuống, trừng mắt nói: “Oanh Thiên Lôi Thạch Anh là cha của tôi, ba ngày trước chúng tôi thành thân, thế nào? Con gái của Thạch Anh không xứng với nghĩa đệ của ngươi hay sao?”

Châu Sơn Dân rất bất ngờ, chàng thi lễ rồi nói: “Đệ tẩu hãy bớt giận, ta thật sự không có ý coi thường. Thạch lão anh hùng khỏe chứ?”

Thạch Thúy Phượng bực dọc đáp: “Khỏe!”

Châu Sơn Dân nói: “Các người đã thành thân ba ngày, y vẫn còn ở Hắc Thạch trang chứ?”

Châu Sơn Dân ngại không hỏi đến chuyện động phòng, cho nên lảng sang chuyện khác, Thạch Thúy Phượng nói: “Đêm ấy chàng đuổi theo một tên cướp sử dụng ngựa trắng, cho đến nay vẫn chưa biết tin tức”.

Châu Sơn Dân thất kinh, chàng đến đây là vì tên cướp đi ngựa trắng này, thế rồi mới nói: “Có phải trung niên sử dụng ngựa trắng trông như thư sinh hay không?”

Thạch Thúy Phượng nói: “Tôi cũng chưa thấy mặt y”.

Châu Sơn Dân nói: “Có phải ngựa của y chạy rất nhanh, đúng không?”

Thạch Thúy Phượng nói: “Đúng thế, ngựa tốt nhất Hắc Thạch trang chúng tôi cũng không đuổi theo kịp”.

Châu Sơn Dân nói: “Cô nương hãy dắt tôi đi gặp Thạch lão anh hùng, truyền Lục Lâm tiễn truy bắt gã này. Ôi, có lẽ Vân Lối đã bị tên gian tặc này hại mất rồi!”

Trong mật thất, Vân Lối và Trương Đan Phong đều thất kinh, chỉ nghe Thạch Thúy Phượng hỏi: “Gian tặc cái gì? Ta cho rằng y chỉ là một kẻ cướp bình thường, nhưng gia gia lại bảo y không phải, ta hỏi gia gia y là ai, gia gia không chịu nói, khi nói chuyện, gia gia tỏ ra rất tôn kính y, không biết là chuyện gì đã xảy ra”.

Châu Sơn Dân cười lạnh, nói: “Kẻ này đã yêu...” Chợt thấy một bóng người thoáng qua ở cửa mộ, đột nhiên có một người bước vào, ngắt lời Châu Sơn Dân. Vân Lối vừa nhìn thì thất kinh, kẻ này chính là tên Hồ tặc đã động thủ với nàng ở bên ngoài tòa cổ tự đêm ấy, đồ đệ của Đàm Đài Diệt Minh! Chỉ thấy Châu Sơn Dân nhảy vọt lên, vung đao chém tới, lớn giọng quát: “Người Hồ lớn gan dám vào Trung thổ!” Té ra Đàm Đài Diệt Minh và đồ đệ của y đều đã cầm binh đánh Châu Kiện, Châu Sơn Dân cũng đã từng giao thủ với y.

Đồ đệ của Đàm Đài Diệt Minh tên gọi Cát Đạt Lai, vừa bước vào trong mộ đã kêu lên: “Trương công tử!”

Chợt thấy Châu Sơn Dân chém tới một đao, vội vàng giơ song câu lên đỡ, chỉ nghe keng một tiếng, kim đao của Châu Sơn Dân đã bị gạt sang một bên, quát rằng: “Có phải ngươi đã hại Trương công tử hay không?”

Châu Sơn Dân nói: “Cả ngươi ta cũng phanh thây ra muôn mảnh!” Thế rồi vung đao chém tới, Cát Đạt Lai lập tức vung ngang múa dọc thanh đôi câu, chiêu số thay đổi vô cùng, nhưng chỉ gạt được đao của Châu Sơn Dân chứ không thể nào trả đòn được.

Thạch Thúy Phượng thấy Châu Sơn Dân đã núng thế, nhủ thầm: “Kẻ này tuy vô lễ, nhưng mình phải giúp y”. Thế rồi rút thanh bội đao xông lên vây đánh. Thạch Thúy Phượng thân pháp nhẹ nhàng, khí lực tuy không đủ nhưng đã có Châu Sơn Dân chống đỡ, hai người bù vào chỗ khiếm khuyết của nhau, lập tức dồn Cát Đạt Lai ra phía sau.

Cát Đạt Lai hú lên một tiếng, đôi câu chém xéo ra, gạt hai cây đơn đao, bề ngoài là tấn công nhưng thực sự là muốn bỏ chạy, chỉ thấy y cố gắng đánh ra một đao rồi lập tức xoay người bỏ chạy, Châu Sơn Dân nào chịu tha, cùng Thạch Thúy Phượng đuổi gấp theo sau, một lát sau chẳng còn nghe tiếng ba người nữa.

Trong mật thất, Vân Lối hoài nghi không yên, ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Trương Đan Phong mỉm cười nhìn mình, tựa như đang nói: “Có phải đệ cho ta là gian tặc không?”

Vân Lối vốn rất tin tưởng cha con Châu Kiện, nếu biết nàng đi cùng với Trương Đan Phong, chỉ e sẽ rút kiếm đâm chàng. Lúc này trong lòng rất mâu thuẫn, Châu Sơn Dân chưa bao giờ nói bừa, mà Trương Đan Phong lại chẳng giống một tên gian tặc, mấy ngày đi cùng, nàng từ căm ghét Trương Đan Phong đã chuyển sang quý mến chàng, thậm chí có thể nói có mấy phần sùng bái chàng, nhủ bụng rằng: “Y từ Mông Cổ trở về, có lẽ cũng là một chiến sĩ người Hán bỏ trốn giống như gia gia của mình, cho nên người Mông Cổ đuổi theo bắt y trở về, còn Châu Sơn Dân lại tưởng y là gian tế”. Nàng suy nghĩ, cuối cùng cũng tìm ra được lời giải thích cho mình, thế rồi đột nhiên mỉm cười, thì thầm nói: “Đại ca, đệ tin đại ca!” Nét mặt Trương Đan Phong giãn ra, lộ vẻ vui mừng vô hạn, chàng thì thầm nói: “Hiền đệ, đệ chính là người tri kỷ đầu tiên trong đời của ta. Hãy ráng vận công, đêm nay ta sẽ kể cho đệ nghe một câu chuyện”.

Rồi chàng rời khỏi mật thất, bước ra bên ngoài đóng cánh cửa mộ lại, lại dùng hai tảng đá chặn lại, nếu không có khí lực ngàn cân thì không thể nào đẩy ra được.

Vân Lối chăm chú luyện công, dẫn khí vận hành, chỉ cảm thấy trong người thoải mái, một lúc lâu sau, chẳng còn ánh sáng mặt trời chiếu vào khe hở nữa, nàng đã biết trời đã về chiều, Hắc Bạch Ma Ha có để lại thức ăn trong mật thất, Trương Đan Phong nổi lửa nấu nồi cháo, đút cho Vân Lối ăn, Vân Lối rất cảm kích, chỉ thấy Trương Đan Phong mỉm cười dịu dàng nói: “Đệ đã bình phục, nhưng không nên nói chuyện, đệ chỉ nghe ta, không nên hỏi, giờ đây ta sẽ kể cho đệ nghe câu chuyện đầu tiên. Sau khi kể ba câu chuyện này, ta sẽ nói rõ lai lịch của mình cho đệ biết”.

Đúng là:

Thân thế ly kỳ thật khó nói, hoa sáng liễu tối lòng nghi ngờ.

Muốn biết chuyện sau đó thế nào, mời xem hồi sau phân giải.