Chương 4: Chương 4

- Vậy thì em lịch sự lắm. Ông ấy chắc là cô đơn.

- Em không nghĩ vậy. Vợ chết ông ấy càng được thanh thản.-

Gerald ngước mặt lên:

- Chính ông ấy nói vậy à?

- Ông ấy không nói đầy đủ như vậy, nhưng nói bằng thực tế.

- Ông ấy chắc là típ người đặc biệt. Bà ấy chết vì bệnh gì?

- Em chẳng nhớ, có lẽ bệnh tim.

- Ngộ đấy - ông quay trở lại với cuốn sách.

- Sau khi ăn tối ông ấy và em đi dạo trên xe ngựa. Đi đến tận Cos Comer rồi về.

- À ra thế - ông Gerald chỉ nói vậy.

- Anh Gerald, anh mập ra đấy.

Ông lại nhìn lên.

- Anh không nghĩ như vậy. Anh vẫn chỉ cân nặng ở mức lâu nay: có thể chỉ lên 1 ký.

- Vậy thì cái ký thêm đó ở bụng. Em thấy là anh đã cắt phần thun ở quần soọc.

- Những hàng mới này đấy - ông nói như để xem bà nói sao.

- Hàng này đã được làm co trước khi may rồi. Tại cái bụng của anh đấy. Thế anh không nhớ anh cứ phải xốc cổ áo luôn hay sao?

- Anh đã định nhắc em đấy, Sarah. Em hồ nhiều quá.

- Em hết hồ từ tuần trước cơ mà, em lại quên chưa đặt. Giờ thì anh phải dùng cổ số 15 rưởi.

- Ông trời ơi! Sarah! Chắc sau đó em lại bảo anh phải mang cỡ cổ ngựa mất - ông để cuốn sách tuột xuống khe đùi. Anh về nhà có 2, 3 đêm một tuần, anh mệt lắm. Anh mong em đừng áp lực anh nữa, cưng.

Bà ấy đến ghế của ông, ngồi lên cái tì tay.

- Anh có biết rằng, em thắc mắc là nếu chích anh bằng cái kim cài đầu, không biết anh có phản ứng nữa hay không?

Lần đầu tiên ông nhìn thẳng vào mặt bà sau nhiều năm nay, ông hướng mắt ra chỗ khác.

- Anh phải làm việc vất vả lắm, cưng.

- Em không cần biết anh làm việc gì, Gerald. Em chỉ muốn xem anh còn nhân tính không thôi.

Ông choàng tay quanh người bà và xiết chặt.

Bà hỏi:

- Anh thấy hoa mùa xuân đẹp không?

- Đẹp, cả mùa xuân cũng đẹp.

Bà ngả người trong lòng ông, với tay rút một bông hoa trong bình, cố tình chậm rãi một chút. Ông đưa tay vuốt bà.

- Và em cũng đẹp nữa.

Bà nghĩ, thật đơn giản, và ngồi thẳng dậy. Khi nào hoa hồng không có gai thì ông mới thắng nổi bà.

Gerald có vẻ triết lý:

- Ba thứ đẹp nhất trên đời: chim trắng bay, cánh đồng lúa mì, và thân thể phụ nữ.

- Chính anh chọn ra ba cái nhất đó à, anh Gerald?

- Anh cũng chẳng nhớ nữa, anh nghĩ vậy.

- Lâu lắm rồi anh chẳng làm bài thơ nào. Đã có lần anh làm nhiều bài rất hay.

- Bởi vậy anh mới có được em - ông nói nho nhỏ.

- Và em chiếm được anh với cái nhà cổ. Em còn nhớ cái ngày công bố di chúc của mẹ em. Thật ra, Gerald, có phải lúc đó anh mới quyết định không?

Ông chẳng nói gì một lúc để không cắt dòng suy nghĩ, một chuyển đổi liên tưởng tế nhị.

- Em còn nhớ bài thơ anh viết về cái nhà không?

- Em mới đọc bài thơ hôm nọ. Em thường đọc đi đọc lại luôn.

- Thật không, Sarah? Vậy mà chẳng bao giờ nói cho anh biết.

Đó là tài liệu duy nhất bà còn đọc, thảng hoặc có khi nào đọc ông ấy mê sách quá khiến bà ghét sách.

- Anh còn nhớ anh thường bảo em đọc sách cho anh nghe không. Gerald? Anh đã cho rằng chỉ có em, ngoài anh ra là xử sự đúng với sách vở.

- Anh nhớ.-

- Có phải anh nịnh em không?

Ông mỉm cười:

- Đó là hào hoa với phụ nữ, anh nghĩ vậy. Chẳng hề có ai nghĩ có một người khác có thể trân trọng đúng mức với thơ, văn của họ. Nhưng em Sarah này, tối nay anh thích nghe em đọc vài bài gọi là chút cảm hoài.

Bà nghĩ, để hoài niệm, lấy tập sách xuống và ngồi đối diện ông. Ông ngồi ngả nghiêng trên ghế, hút ống điếu, mắt lim dim. Đã lừ lâu, những suy tư trầm mặc của ông đã làm dịu bớt cái sốc đầu tiên do cách biệt tuổi tác.

- Em vẫn thích bài Bình minh cuộc đời tôi nhất.

Ông nói nho nhỏ:

- Vậy thì tốt, anh viết cho em mà.

Bà đọc hết bài nọ đến bài kia, lâu lâu lại tự hỏi hình ảnh nào hiện ra trong đầu ông khi viết những dòng này. Còn ông lâu lâu lại rít một hơi thuốc, tạo nên âm thanh như một em bé bú cái bình đã hết sữa. Bà nghĩ là đã đọc những bài thơ rất hay, những vần thơ vang lên mùi mẫn, hương vị dịu êm của mối tình êm đẹp. Chắc chắn sẽ đến lúc ông phải đứng dậy và đến với bà. Nhưng ông vẫn ngồi im, mắt nhắm nghiền, tay cầm píp đặt trên cái tỳ tay. Rồi đột nhiên giọng bà trở nên trầm đục. Đọc nhiều như vậy không còn trong trẻo được nữa, bà nghĩ tới tiếng hóta mi và cái gai đâm vào ngực nó. ổ bà cũng đau như cắt khiến bà phải cố gắng hết sức, vì bài thơ sắp hết rồi.

Thình lình bà ngừng lại, một câu thơ chưa hết, vì một tiếng động trong phòng: cái tẩu của Gerald rơi xuống sàn, các ngón tay vẫn quắp theo tư thế giữ tẩu nhưng đầu ông đã gục xuống ngực. Đặt tập thơ xuống bên cạnh, bà bước sang lượm cái tẩu lên mà nuối tiếc vu vơ, như thể bà nhặt xác con chim chết vừa gục xuống dưới chân bà.

Lần ra đi bán hàng của Gerald vào sáng hôm sau diễn ra đúng truyền thống từ xưa tới nay, ngay cả cái hôn phớt lên má bà và cả vài lời:

- Tạm biệt đến chiều mai, bảo trọng - cũng hời hợt như vậy nốt.

Khi vào nhà bà nghĩ, bảo trọng? Bảo trọng cái gì? Để làm gì? Nấu một nồi nước để luộc một cái trứng chăng? Bà cố nhanh chóng làm xong việc nhà rồi mặc quần áo tươm tất. Khi bà thấy ông Joyce đã thắng ngựa vào xe đầy hoa, bà khóa cửa và mạnh dạn đợi ông ấy trên đường.